thật sự giải quyết một cách thấu đáo những giá trị văn hoá của hai hệ thống từ ngữ Hán Việt và thuần Việt trong điều kiện hành chức của nó. Trong bài viết này, tác giả cũng nhận định:
Giao thoa ngôn ngữ gắn liền với giao thoa văn hoá. Sự giao thoa ấy đã góp phân tăng thêm cho Truyện Kiềumột số lượng từ phong phú, có khả năng chuyển tải mọi tâm tư phức tạp tế nhị của con người. Sự giao thoa từ ngữ trong Truyện Kiều góp thêm một minh chứng về khả năng mở khi tận dụng ngôn ngữ để diễn đạt nhưng vẫn đảm bảo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ bằng phương thức chuyển nghĩa từ... có tác dụng tích cực khi người song ngữ ấy đồng thời là người song văn hoá. [68, tr. 160].
Về ngôn ngữ bình dân, nhất là lớp từ ngữ dân tộc qua ca dao, tục ngữ, lối nói khẩu ngữ, từ địa phương đã được các tác giả Hoàng Hữu Yên trong Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện Kiều (2003) [173], Phạm Đan Quế trong Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2008) [115], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [122], Lê Nhật Ký trong Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (2013) [97]... đã có những kết luận cơ bản. Bàn về vấn đề này, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên đã nhận thấy:
Đọc các tác phẩm Nôm của Nguyễn Du, chúng ta bắt gặp trong Truyện Kiều cũng như trong một số tác phẩm khác của nhà thơ vốn từ thuần Việt lấp lánh trong tác phẩm, chứng tỏ đại thi hào của chúng ta hết sức trân trọng và chân thành học tập sáng tạo từ cái vốn quý đó. [179, tr.31].
Cũng như hướng tiếp cận văn bản học của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Quảng Tuân..., hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khi phân tích, khảo chứng về hai nguồn gốc bác học và bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều đều có những nhận xét khái quát về phong cách ngôn ngữ văn hoá của Nguyễn Du. Có thể nói, lời thơ của Tố Như rất gần gũi với lời ăn tiếng nói và nếp suy nghĩ của mọi tầng lớp nhân dân. Nhà thơ đã có ý thức rất cao khi học tập, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá của ngôn từ trong văn chương bác học, bình dân Việt Nam. Đó cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc.
Cũng từ góc độ văn hoá, một số nhà nghiên cứu khác đã đi theo khuynh hướng truy tìm những nguồn gốc, xuất xứ của các ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Đây có thể xem như là một trong những hướng tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - văn hoá kết hợp với những thành tựu nghiên cứu về Huấn hỗ học Hán ngữ. Đặc biệt ở đây, hướng tiếp cận này có thể phục dựng lại một bức tranh phong phú về những ảnh hưởng của văn hoá, văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam đến tư duy thẩm mỹ, khả năng lựa chọn ngữ liệu trong quá trình hình thành tác phẩm và tìm hiểu được sự vận động lý thú, những ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuậtTruyện Kiều đến đời sống văn chương hậu thế.
Những tác giả đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này, theo chúng tôi, có thể kể đến vai trò mở đường của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Thạch Giang, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn... Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80], Nguyễn Thạch Giang trong Đoạn Trường tân thanh qua cái nhìn của Thiền gia, Nho gia (1995) [47], Lời quê chắp nhặt (2001) [46] và Nguyễn Thuý Hồng trong công trình Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều (1995) [65] và Phạm Đan Quế trong công trình Về những thủ pháp nghệ thuật văn chương Truyện Kiều (2006) [115], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [122] đã đặt vấn đề khảo sát hệ thống ngôn ngữ văn hoá trong ngôn ngữ truyện Nôm nói chung và Truyện Kiều nói riêng như một thủ pháp đặc trưng tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm từ sự phân loại nguồn gốc của từ ngữ: Việt và Hán - Việt. Kết quả nghiên của các chuyên gia trên đều thống nhất, phù hợp với quan điểm của Nguyễn Thuý Hồng, khi tác giả cho rằng:
Từ ngữ Hán Việt được vận dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và các truyện thơ Nôm chủ yếu là những từ ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ văn hoá (ngôn ngữ của các văn bản viết) của Trung Quốc như: Các từ địa danh, nhân danh và điển cố thi liệu quen thuộc của văn chương Trung Quốc, các thuật ngữ khái niệm trong các tác phẩm triết học Phật giáo và kinh điển Nho giáo. [65, tr.45 - 46].
Có thể bạn quan tâm!
- Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá - 1
- Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá - 2
- Phương Pháp Tiếp Cận Văn Hóa Đối Với Tác Phẩm Văn Học
- Ngôn Ngữ Với Vấn Đề Bảo Tồn, Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa
- Ngữ Liệu Văn Hoá Trong Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Truyện Nôm Bác Học
Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.
Kết quả của hướng nghiên cứu trên tuy có nhiều điểm mới so với những người đi trước song những tác giả này là đi sâu phân tích, quy loại, phân loại các ngữ liệu một cách chặt chẽ, theo hệ thống, đặc biệt là chưa nêu bật vẻ đẹp cũng như sự đóng góp của hệ thống từ ngữ này đối với toàn bộ hệ thống cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều. Nói cách khác, đây cũng là hướng tiếp cận và lý giải Truyện Kiều bằng phương pháp thống kê học, một trong những phương pháp đặc trưng của ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu trên cũng là những định hướng quan trọng giúp cho người thực hiện đề tài này đi sâu phân tích những đặc trưng và giá trị nghệ thuật của lớp từ ngữ văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về thế giới ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Du ngày càng nhiều nhưng việc nghiên cứu, đánh giá nó dưới góc độ liên ngành ngôn ngữ - văn hoá vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Cá biệt, một số nhà thơ đã chịu ảnh hưởng về tư tưởng, văn phong của Truyện Kiều một cách rất nghệ thuật và văn hoá. Chẳng hạn ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, Tuệ Không Phạm Thiên Thư đã cảm khái viết nên Đoạn Trường vô thanh (Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1974) [149] như một sự tâm cảm, “biệt nhỡn liên tài” đối với Tố Như Tử. Ngôn từ văn hoa, ý tứ điêu luyện, bố cục rò ràng, Đoạn Trường vô thanh như một sự tương thức, hoà hợp của những tình điệu thẩm mỹ, như một sự hội ngộ ngẫu nhiên của những hồn thơ đa cảm trước cảnh tang thương của cuộc đời và mang theo cả lịch sử văn hiến ngàn năm của một dân tộc anh hùng. Tuy vậy, theo chúng tôi, mở đầu cho hướng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ - văn hoá đối với Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều có lẽ là nhà Kiều học Phạm Đan Quế, trong hàng loạt các công trình của mình do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành như: Tập Kiều - một thú chơi tao nhã (1999) [112], Đố Kiều - nét đẹp văn hoá (2002) [118], Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2002) [115], Bình Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều (2003) [110], Lục bát hậu Truyện Kiều (2003) [117], Truyện Kiều trên báo chương thế kỷ XX (2004) [120], Thế giới nhân vật Truyện Kiều (2005) [121], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [121]... và bộ sách Truyện
Kiều trong văn hoá Việt Nam (Tùng thư Truyện Kiều) (2013) của Hội Kiều học Việt Nam đã bước đầu đi sâu phân tích những nét đẹp văn hoá được thể hiện qua ngôn ngữ của thi phẩm.
Thông qua những bộ tùng thư văn hoá Kiều mà chúng tôi vừa đề cập trên, Phạm Đan Quế đã nêu bật những hiện tượng, khía cạnh văn hoá của Truyện Kiều đã ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội, văn học nước nhà. Tuy nhiên, qua các công trình này, các tác giả chưa thực sự đầu tư phân tích quá trình chuyển hoá, đặc trưng văn hoá Trung Hoa và Việt Nam đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ Truyện Kiều như thế nào. Nói cách khác, cả Phạm tiên sinh lẫn Tuệ Không cư sỹ đã góp phần minh chứng cho sức sống trường cửu của Truyện Kiều và những câu lục bát đậm tình dân tộc. Tuy nhiên, cả hai đều chưa đi sâu lý giải cội nguồn văn hoá của tác phẩm. Sự lan toả, vang vọng của những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm bên trong lớp ngôn ngữ đặc biệt của Truyện Kiều đã khiến cho giai phẩm này đi vào thế giới tinh thần của người đọc dường như lớn hơn nhiều so với những gì mà Nguyễn Du đã ký thác. Giá trị, ý nghĩa của Truyện Kiều ngày càng được nâng cao bởi những yếu tố thẩm mỹ, những nội hàm văn hoá đang ẩn sâu dưới lớp băng nghệ thuật của ngôn từ và nó đem lại cho người tiếp nhận những dự cảm, tình điệu, tâm thức mới trong hành trình đi tìm các tầng nghĩa nhân sinh, văn hoá của nghệ thuật và đời sống.
Từ năm 1999 đến nay (2014), một số nhà nghiên cứu đã kế thừa quan điểm học thuật của Dương Lâm (Trung Quốc), Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương... Đặc biệt, các chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá(2003, tái bản bổ sung 2007) [144] của Trần Nho Thìn, Từ cái nhìn văn hoá (1999) [147], Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá (2005) [148] của Đỗ Lai Thuý, Từ vựng Hán ngữ với nền văn hoá Hoa Hạ (2002) [66] của Huỳnh Chương Hưng đã thật sự mang lại một hướng tiếp cận mới cho lĩnh vực nghiên cứu Ngữ văn cổ điển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu mới nhất về ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu như Thái Kim Đỉnh, Vương Trọng, Vũ Thế Khôi, Trương Quế Phương, Lê Thu Yến, Trương Xuân Tiếu, Mai Thị Ngọc Chúc, Vũ Thanh Huân, Lê Nhật Ký... lần lượt công bố cho thấy trào lưu
tiếp cận ngôn ngữ văn hoá đối với Truyện Kiều đã thực sự cần thiết, cần có sự nâng cấp thành lý luận. Do đó, kế thừa những người đi trước, chúng tôi luôn ý thức tìm về những giá trị văn hoá của Truyện Kiều cũng như là những sáng tạo mà Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế.
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện luận án, bản thân chúng tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu, thể hiện kết quả nghiên cứu bước đầu của mình về giá trị văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều qua một số bài viết như: Hàm nghĩa văn hoá của chữ Đông và chữ Tây trong văn học trung đại Việt Nam (2003), Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều (2009), Hàm nghĩa văn hoá của hai từ Nam, Bắc trong ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam (2011), Ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến đời sống văn chương và xã hội Việt Nam (2012), Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều (2013).
Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề cập trên, chúng tôi cho rằng việc khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm nói chung, Truyện Kiều nói riêng là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự đầu tư thỏa đáng. Điều đó cho thấy, đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá mà chúng tôi đang thực hiện tuy không phải hướng tiếp cận mới lạ, song nó vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ cho những ai tâm huyết với các tác phẩm văn học dân tộc. Hướng tiếp cận này góp phần minh chứng khả năng liên hội của từ ngữ văn hoá tạo nên đặc trưng tư duy mang tính biểu tượng, ý nghĩa liên hội của các chúng trong ngôn ngữ Truyện Kiều, làm cho trường liên tưởng của tác phẩm này càng được mở rộng mà mỗi độc giả tuỳ theo bề dày văn hoá của mình có thể thẩm thấu được.
Tóm lại, từ những hướng nghiên cứu đã tổng thuật và nhìn lại một chặng đường lịch sử khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hoá là vấn đề lớn, cần có sự đầu tư, tìm hiểu của nhiều thế hệ học giả và bạn đọc. Từ định hướng này, nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu, khám phá thế giới nghệ thuật, bức tranh ngôn ngữ về đời sống xã hội, khẳng định những
cách tân, đóng góp của Thanh Hiên tiên sinh trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực cùng với những trải nghiệm của một nhà nghệ sỹ trước những dâu bể, biến thiên, tang thương của cuộc đời. Do vậy, khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học trung đại nói chung và Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một công việc khá phức tạp và có giá trị khoa học, thực tiễn đối với công tác nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm này trong nhà trường. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một số nhà nghiên cứu bước đầu đã khám phá nội dung, tư tưởng, những sáng tạo, đặc trưng phong cách văn hoá của đại thi hào Nguyễn Du.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, chúng tôi nhận thấy cần phải có những cách thức tiếp cận liên ngành, khảo cứu, giảng giải ngữ liệu văn hoá một cách khoa học và chuẩn xác. Vì thế, khi thực hiện luận án, chúng tôi cũng đã gặp không ít những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc xác định rò đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã giúp tác giả luận án từng bước tháo gỡ được những vướng mắc học thuật cần giải quyết.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án chúng tôi là hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, cụ thể ở đây là ngữ liệu văn hoá bác học và ngữ liệu văn hoá bình dân. Xét về hình thức ngôn ngữ, nguồn gốc và xuất xứ, đây là hệ thống từ ngữ Hán Việt, có yếu tố Hán Việt, thuần Việt, từ ngữ nguyên dạng hay chuyển dịch được dẫn dụng trong văn chương bác học có nguồn gốc từ các tác phẩm kinh điển trong triết học và văn chương cổ điển Trung Hoa như Tứ
thư 四書, Ngũ kinh 五經, Lão Tử Đạo Đức kinh 老子道德經, Trang Tử Nam Hoa
kinh 莊子南華經, Sở Từ 楚辭, Nhạc phủ 樂府, Đường thi 唐詩, Tống từ 宋詞, Minh Thanh cổ điển tiểu thuyết 明清古典小說... hay những bộ kinh tạng của Phật giáo nói chung. Về ngữ nghĩa và phạm vi sử dụng, đó là các từ ngữ thể hiện những
quan niệm, biểu tượng về màu sắc, phương vị, từ ngữ thuộc các lĩnh vực chính trị, quân sự, sinh hoạt văn hoá cộng đồng, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ của thi ca cổ điển phương Đông. Cụ thể có thể khái quát thành những thành phần sau: địa danh,
nhân danh Hán Việt, các từ ngữ, khái niệm xã hội, thành ngữ, tục ngữ Hán Việt, hệ thống từ ngữ, thi văn liệu tiếp thu từ văn hoá, văn học cổ điển Trung Hoa.
Bên cạnh những ngữ liệu có nguồn gốc từ văn hoá, văn chương bác học, đề tài còn hướng đến những từ ngữ có nguồn gốc từ trong văn học dân gian, văn học bình dân, trong lối nói sinh hoạt khẩu ngữ đời thường của cuộc sống. Cụ thể là các thành phần ngôn ngữ như: từ ngữ có phong cách khẩu ngữ, bình dân (chủ yếu nghiên cứu qua lớp hư tư tiếng Việt, từ cổ Việt ngữ, từ địa phương xứ Nghệ), từ láy, những từ ngữ ảnh hưởng từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ và khẩu ngữ trong tiếng Việt.
Đặc biệt, luận án còn hướng đến một lớp từ ngữ chịu ảnh hưởng từ Truyện Kiều trong văn chương và đời sống tinh thần của các thế hệ văn nghệ sĩ sau Nguyễn Du mà chúng tôi tạm gọi là Từ ngữ văn hoá hậu Truyện Kiều. Do vậy, thông qua kết quả thống kê, phân loại ngữ liệu, chúng tôi sẽ bước đầu đi vào tìm hiểu, phân tích hàm nghĩa văn hoá, chức năng, giá trị sử dụng nó trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, những ảnh hưởng của văn hoá bác học, bình dân đối với ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều. Từ những kết luận có được, thông qua quá trình khảo sát, thống kê, phân loại các tiểu hệ thống ngôn ngữ với những nét nghĩa văn hoá đặc thù, chúng tôi bước đầu tìm hiểu phong cách, giá trị cũng như những hiệu quả thẩm mỹ của các hệ thống ngữ liệu văn hoá, những biểu hiện cụ thể của nó trong Truyện Kiều. Để tạo tính thống nhất trong quá trình khảo sát ngữ liệu, trong luận án này, chúng tôi không đi sâu khảo sát những hiện tượng cú pháp câu trong ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều.
Ngoài ra, trên một hệ quy chiếu mới, chúng tôi bước đầu so sánh những đặc trưng văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật của thiên truyện này với một số truyện thơ Nôm bác học khác trước và sau nó.
3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê
Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng tôi là bản
Truyện Thuý Kiều (1925, tái bản 1960) do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo
[30]. Đây là một trong những bản phiên quốc ngữ chất lượng, có giá trị khoa học. Bên cạnh đó chúng tôi có những đối chiếu và so sánh với các bản quốc ngữ Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện (1952) [35] do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chấp bút hiệu đính, chú giải, bình luận, bản Truyện Kiều chú giải (1952, tái bản 2010) [28] do Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải và bản Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) (1960, bản in lần 3) [29] do học giả Bùi Khánh Diễn chú thích và bình luận.
Trong quá trình thống kê, tác giả luận án đã sử dụng một số kết quả, thành tựu nghiên cứu về văn bản học, ngôn ngữ học của các nhà nghiên cứu trước đây. Với công việc này, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói trong lịch sử tìm hiểu, tiếp nhận ngôn ngữ Truyện Kiều. Tiếp đến là trình bày những diễn giải, cắt nghĩa thêm một số thông tin liên quan đến các ngữ liệu văn hoá đã được thống kê, phân loại trong luận án. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã gặp phải không ít khó khăn, nhất là ở hệ thống tiêu chí phân loại ngữ liệu. Và tất nhiên, việc thống kê, phân loại, xử lý một số lượng lớn dữ liệu, sự thiếu sót, khiếm khuyết là điều không tránh khỏi, nhất là trong quá trình thẩm bình và phân tích những nét đẹp văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều - Tập đại thành về văn hoá, văn học Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành thống kê cụ thể các thành phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành phần ngôn ngữ bác học, bình dân trong Truyện Kiều, so sánh tác phẩm này với một số truyện Nôm khác.
Từ số lượng, tỷ lệ được thống kê, tác giả luận án sẽ phân tích các đặc điểm ngữ dụng, đặc trưng văn hoá, tính chất đặc thù của từng hệ thống để đi đến những kết luận về vai trò, vị trí và giá trị thẩm mỹ của các thành phần ngữ liệu văn hoá cụ thể trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
Bên cạnh đó, tác giả luận án sẽ so sánh những tương đồng và dị biệt trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du với một số tác giả văn học khác. Qua đó, chúng tôi xác định những đặc trưng trong phong cách văn hoá của tác giả Truyện Kiều, vị trí của tác phẩm trong tiến trình phát triển văn hoá, văn chương cổ điển Việt Nam và tiếp tục khái quát những quy luật phát triển của ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam.