Đối Với Nhân Tố “Nhu Cầu Thông Tin Ktqt Từ Phía Lãnh Đạo Đơn Vị”

mức độ khác nhau. Để các bộ phận trong công ty có thể vận dụng thành công công tác KTQT trong thời gian tới, căn cứ vào mức ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc vận dụng công tác KTQT tại CTCP Nước – Môi trường Bình Dương từ cao đến thấp, tác giả đề xuất các kiến nghị mang hàm ý quản trị nhằm nâng cao khả năng vận dụng công tác KTQT cho công ty theo thứ tự ưu tiên như sau:

5.2.1. Đối với nhân tố “Nhu cầu thông tin KTQT từ phía lãnh đạo đơn vị”

Nhu cầu thông tin KTQT từ phía lãnh đạo đơn vị phục vụ ra quyết định có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả quản trị của các hoạt động trong đơn vị, vì thế quan điểm trong việc xác định nhu cầu thông tin KTQT của nhà quản lý là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của KTQT trong một tổ chức. Bởi lẽ, mục đích của KTQT là cung cấp thông tin cho nhà quản lý phục vụ ra quyết định, vì thế nếu nhà quản lý có nhu cầu thông tin kinh tế của KTQT sẽ được xây dựng, và phát triển để đáp ứng nhu cầu này.

Bên cạnh đó, nhà quản lý còn phải là người chủ động phát triển KTQT trong tổ chức, nhà quản lý thường có thói quen ra quyết định dựa trên kinh nghiệm, bản lĩnh và tình cảm mà đôi khi bỏ quên các thông tin từ hữu ích mà tổ chức KTQT có thể mang lại, do đó việc vận dụng KTQT sẽ cung cấp các thông tin tài chính và phi tài chính, cần thiết cho nhà quản lý, từ đó các quyết định cũng được đưa ra dựa trên những số liệu, căn cứ thích hợp, và tin cậy hơn, nâng cao hiệu quả các quyết định của nhà quản lý.

Trong một tổ chức có thể chia thành 3 cấp quản lý, đó là nhà quản lý cấp cao; nhà quản lý cấp trung và nhà quản lý cấp tác nghiệp. Bên cạnh kinh nghiệm quản lý của bản thân, lãnh đạo đơn vị cần phải biết sử dụng thông tin KTQT để có thể đưa ra các quyết định tương ứng với từng lĩnh vực, bộ phận, từng cấp quản lý mà mình đảm nhận, qua đó giúp họ có phương án phản ứng nhanh nhằm giảm bớt những bất trắc trong kinh doanh, cũng như giảm bớt các chi phí cơ hội có thể phát sinh do các quyết định không kịp thời hoặc không phù hợp. Điều này thể hiện như sau:

Đối với quyết định có tính chiến lược của nhà quản trị cấp cao: KTQT cung cấp loại thông tin để hỗ trợ họ xác định các mục tiêu của tổ chức và đánh giá xem các mục tiêu trên thực tế có thể đạt được hay không. Những thông tin này gồm khả năng sinh lời của tổ chức, khả năng sinh lời của từng bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp, nhu cầu thiết bị, vốn, v.v…

Đối với quyết định có tính chiến thuật của nhà quản trị cấp trung gian: KTQT cung cấp loại thông tin để trợ giúp họ ra quyết định về sử dụng các nguồn lực của tổ chức, và giám sát các nguồn lực đó đã và đang được sử dụng như thế nào. Những thông tin này bao gồm các thước đo năng suất (kết quả tính cho một giờ/người hay tính cho một giờ máy), các báo cáo phân tích biến động, dự báo dòng tiền v.v…

Đối với các quyết định tác nghiệp: KTQT cung cấp loại thông tin hoạt động cho cấp quản lý cơ sở để giúp họ điều hành thực thi nhiệm vụ được giao ở phân xưởng hay phòng ban, v.v… Thí dụ, ở phòng tiền lương, thông tin ở các đơn vị này sẽ gồm mức lương ngày, số giờ làm việc hàng tuần của từng công nhân, mức lương/giờ trả cho mỗi người, các chi tiết về thời gian mà từng người bỏ ra cho từng công việc trong tuần, v.v…

Mặt khác, nhà quản lý nên xác định rõ nhu cầu sử dụng thông tin KTQT nhằm phục vụ ra quyết định trong từng giai đoạn quản trị của mình từ khâu hoạch định; triển khai tổ chức thực hiện; kiểm tra, kiểm soát hoạt động đến việc choviệc phân tích, điều chỉnh kế hoạch, mục tiêu hoạt động của tổ chức. Điều này cần thực hiện như sau:

Đối với công tác hoạch định: Xác định mục tiêu hoạt động và xây dựng phương án để đạt được mục tiêu đó. Theo đó, thông tin KTQT mang tính chất dự báo là cần thiết cho nhà quản trị và dự toán ngân sách của KTQT là một công cụ công cấp thông tin hữu hiệu nhất.

Triển khai, tổ chức thực hiện: KTQT cung cấp thoâng tin cho các tình huống khác nhau về các phương án khác nhau để nhà quản trị có thể xem xét. Cung cấp thông tin thích hợp của KTQT sẽ hỗ trợ cho lãnh đạo đơn vị thực hiện tốt chức năng quản trị này.

Kiểm tra (kiểm soát): cung cấp các báo cáo thực hiện thông qua việc cung cấp thông tin về so sánh số liệu thực hiện so với dự toán hoặc kế hoạch; từ đó liệt kê tất cả các sự khác biệt và đánh giá việc thực hiện. Kế toán trách nhiệm của KTQT là công cụ hữu hiệu nhất để cung cấp những thông tin này.

Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định: Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin và phần lớn thông tin là do KTQT cung cấp. Vì vậy, KTQT phải cung cấp thông tin linh hoạt, kịp thời và mang tính hệ thống, trên cơ sở đó phân tích các phương án đã thiết lập để lựa chọn phương án tối ưu nhất cho việc ra quyết định.

Tóm lại, để vận dụng công tác KTQT vào CTCP Nước – Môi trường Bình Dương được cải thiện thì cần xác định rõ nhu cầu thông tin KTQT từ phía lãnh đạo đơn vị, cụ thể như sau:

STT

Nội dung thực hiện

1

Lãnh đạo đơn vị có nhu cầu sử dụng thông toán kế toán quản trị cho việc hoạch định

2

Lãnh đạo đơn vị có nhu cầu sử dụng thông toán kế toán quản trị cho việc tổ chức thực hiện

3

Lãnh đạo đơn vị có nhu cầu sử dụng thông toán kế toán quản trị cho việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động

4

Lãnh đạo đơn vị có nhu cầu sử dụng thông toán kế toán quản trị cho việc phân tích, điều chỉnh kế hoạch, mục tiêu hoạt động

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

Nghiên cứu việc vận dụng công tác kế toán quản trị tại công ty cổ phần nước – môi trường Bình Dương - 14


5.2.2. Đối với nhân tố “Nhận thức của lãnh đạo đơn vị”

Kết quả nghiên cứu cho thấy lãnh đạo các bộ phận của CTCP Nước – Môi trường Bình Dương có nhu cầu về những thông tin mà KTQT có thể cung cấp nhằm thực hiện các chức năng quản trị của họ. Do đó trước hết cần nâng cao nhận thức và trình độ quản lý cho lãnh đạo đơn vị, giúp họ thấy được tầm quan trọng của KTQT trong hệ thống kế toán, tầm quan trọng của thông tin KTQT trong thực

hiện các chức năng quản trị của mình. Lãnh đạo đơn vị cần xác định rõ những thông tin cần được bộ phận KTQT cung cấp, để bộ phận KTQT xây dựng mô hình đáp ứng những yêu cầu cung cấp thông tin, để nhanh chóng áp dụng KTQT vào DN.

Hiện nay, KTQT dần được các DN biết đến, song, sự hiểu biết về KTQT còn mơ hồ, các DN cho rằng KTQT là bộ phận quản trị, trực thuộc ban giám đốc, bộ phận kế toán chỉ thực hiện chức năng cung cấp thông tin bằng báo cáo tài chính cho cơ quan quản lý, DN còn chưa thấy được mối liên hệ gắn kết cần phải có giữa bộ phận kế toán tài chính và KTQT trong cùng một hệ thống kế toán. Vì vậy, lãnh đạo đơn vị cần nâng cao trình độ và kiến thức về KTQT không chỉ cho bản thân mà cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của công ty; đồng thời cần nhanh chóng tiếp cận, chuyển đổi về nội dung kế toán và tổ chức bộ máy kế toán. Sắp xếp lại bộ máy kế toán công ty theo hướng kết hợp bộ phận kế toán tài chính và bộ phận KTQT trong cùng một bộ máy kế toán, để bộ phận KTQT sử dụng thông tin đầu vào từ kế toán tài chính. Lãnh đạo đơn vị cần nhận thức rằng đội ngũ thực hiện KTQT là không thể thiếu, nên việc đầu tư vào đào tạo, cũng như bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn về kế toán và KTQT, hay tuyển dụng nhân sự mới có chuyên môn, am hiểu về KTQT là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thực hiện công tác KTQT cho công ty. Theo đó lãnh đạo các bộ phận của CTCP Nước – Môi trường Bình Dương cần quan tâm đến các vấn đề sau:

STT

Nội dung thực hiện

1

Lãnh đạo đơn vị cần khẳng định về nhu cầu về thông tin KTQT ở đơn vị là cần thiết và quan trọng

2

Lãnh đạo đơn vị cần chú trọng trang bị kiến thức về tài chính – kế toán theo hướng quản trị đơn vị hiện đại

3

Lãnh đạo đơn vị cần quan tâm đúng mức về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị để phục vụ việc ra quyết định bộ phận


4

Lãnh đạo đơn vị cần có ý thức nâng cao trình độ và kiến thức về kế toán quản trị cho bản thân và cán bộ công nhân viên của đơn vị


5.2.3. Đối với nhân tố “Nguồn nhân lực kế toán”

Theo kết quả kiểm định mô hình nghiên cứu thì nguồn nhân lực kế toán có ảnh hưởng mạnh và tích cực đến việc vận dụng công tác KTQT tại CTCP Nước – Môi trường Bình Dương. Theo đó, con người luôn là yếu tố trung tâm cho mọi hoạt động, mà trong đó có tổ chức KTQT ở các DN, kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn nhân lực kế toán được đề cập đến trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm vận dụng KTQT, đồng thời phải có tinh thần trách nhiệm, khả năng phân tích, tham mưu cho lãnh đạo đơn vị sử dụng thông tin KTQT để ra quyết định hiệu quả. Vì thế, theo tác giả, để KTQT phát huy được vai trò của mình phục vụ cho nhà quản trị DN cần bố trí người làm kế toán có trình độ chuyên môn, am hiểu về tổ chức, quy trình hoạt động của công ty, có kiến thức nền tảng về quản trị công ty, quản trị kinh doanh. Vận dụng công tác KTQT trong công ty là công việc yêu cầu người thực hiện không chỉ có kiến thức mà còn phải vận dụng được kiến thức vào công tác KTQT mang đặc thù của công ty, đồng thời KTQT không hoạt động độc lập mà tồn tại trong mối quan hệ tổng thể với kế toán tài chính vì thế người làm kế toán cũng yêu cầu phải có khả năng thích nghi và linh hoạt cao khi thực hiện công tác KTQT. Theo đó, công ty cần quan tâm đến các vấn đề sau:

+ Tổ chức đào tạo đội ngũ nhân viên am hiểu về KTQT đồng thời có nghiệp vụ về kế toán tài chính và sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ. Hệ thống KTQT là một phức hệ bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau của công ty. Việc vận dụng công tác KTQT cần quan tâm đến chức năng của dữ liệu hệ thống KTQT, dựa trên cơ sở trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của phân tích viên. Do đó, để vận hành có hiệu quả hệ thống KTQT thì công ty phải có đủ nhân viên được đào tạo bài bản. Xây dựng mối quan hệ giữa các bộ phận và nhân viên liên quan đến hệ thống KTQT.

+ Tổ chức KTQT tại công ty cần thiết lập trong mối quan hệ với các bộ phận khác. Công việc hàng ngày của KTQT là tiếp xúc thường xuyên với các nhân viên thuộc các bộ phận khác nhau của công ty. Để sự có sự phối hợp giữa các bộ phận và nhân viên với nhau vì mục tiêu chung của công ty (chứ không phải của từng bộ phận riêng biệt) nhất thiết phải xây dựng mối quan hệ giữa các bộ phận đó với nhau. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống KTQT.

+ Đào tạo, hướng dẫn để các nhân viên kế toán áp dụng hiệu quả công nghệ thông tin. Thông tin hỗ trợ cho các quá trình hoạch định, kiểm soát, phân tích và ra quyết định quản lý đòi hỏi việc thu thập, truyền tải và xử lý dữ liệu phải có tốc độ cao. Không áp dụng công nghệ thông tin hoặc áp dụng không hiệu quả làm cản trở việc đáp ứng các yêu cầu của hệ thống KTQT như: độ tin cập, tính đầy đủ, tính kịp thời và tính thường xuyên của thông tin.

Tóm lại, để việc vận dụng công tác KTQT vào công ty được thuận lợi thì công ty cần quan tâm việc cải thiện nguồn nhân lực về kế toán, cụ thể như sau:

STT

Nội dung thực hiện

1

Nhân viên kế toán nắm rõ quy trình xây dựng và vận dụng công tác kế toán quản trị tại đơn vị

2

Nhân viên kế toán chủ động tham dự các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn về kế toán quản trị

3

Nhân viên kế toán có kinh nghiệm trong lập các dự toán ngân sách, báo cáo phân tích nhằm cung cấp thông tin cho việc nhà quản trị ra quyết định

4

Nhân viên kế toán quản trị làm việc có tinh thần trách nhiệm

5

Nhân viên kế toán có trình độ phù hợp với vị trí công tác liên quan đến vận dụng công tác kế toán quản trị


6

Nhân viên kế toán khả năng tham mưu cho nhà quản trị sử dụng thông tin kế toán quản trị trong công tác quản lý và có đạo đức nghề nghiệp phù hợp với vị trí công tác liên quan đến vận dụng công tác kế toán quản trị


5.2.4. Đối với nhân tố “Ứng dụng CNTT”

Nhân tố ứng dụng CNTT có tác động mạnh và tích cực đến việc vận dụng công tác KTQT tại CTCP Nước – Môi trường Bình Dương. Theo đó, để có thể ứng dụng CNTT một cách thành công, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả phục vụ cho vận dụng công tác KTQT công ty này thì các công ty cần phải xác định và thực sự hiểu rõ về các mức độ ứng dụng CNTT và đặc điểm CNTT phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nhu cầu xử lý thông tin để cung cấp thông tin phục vụ ra quyết định cho nhà quản trị bộ phận của công ty. Khi ứng dụng CNTT, công ty cần quan tâm đến:

- Những tiến bộ về phần cứng như khả năng xử lý, khả năng lưu trữ, tốc độ

xử lý.

- Những sự phát triển của phần mềm như sự phát triển của các hệ quản trị

cơ sở dữ liệu (DBMS), các giải pháp lưu trữ, truy xuất thông tin, các giải pháp đảm bảo an toàn cho dữ liệu, thông tin mà đặc biệt là các dữ liệu phục vụ cho công tác KTQT tại đơn vị.

- Khả năng chia sẻ tài nguyên, hay khả năng cung cấp, chia sẻ thông tin trên mạng nội bộ (LAN), mạng diện rộng (WAN), hay Internet, qua đó, dữ liệu, thông tin KTQT sẽ được chuyển tại đến các đối tượng sử dụng thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện.

Bên cạnh đó khi xử lý số liệu trên phần mềm kế toán như hiện nay, một vài phần mềm diệt virus tự động có thể xóa đi, chu dữ liệu trên phần mềm kế toán nói chung cũng như các thông tin kế toán phục vụ cho quản trị chi phí vì nó hiểu phần mềm công ty sử dụng như một phần mềm độc hại. Điều này dẫn đến mất đi dữ liệu kế toán và dữ liệu kế toán chi phí. Vì thế cần thiết kế phần mềm kế toán, không chỉ đáp ứng yêu cầu thông tin kế toán tài chính, mà cũng phải đáp ứng yêu cầu về

thông tin KTQT, để một mặt đảm bảo nội dung kinh tế mặt khác còn phải đảm bảo tính an toàn về kỹ thuật phần mềm.

Tóm lại, để việc vận dụng công tác KTQT vào công ty được thuận lợi thì việc ứng dụng CNTT là cần thiết, theo đó công ty cần quan tâm đến các vấn đề sau:

STT

Nội dung thực hiện

1

Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán nhằm phục vụ để thiết lập được các báo cáo quản trị mang tính chuyên nghiệp

2

Đơn vị cần đầy mạnh việc sử dụng mạng nội bộ để tổng hợp kết quả hoạt động, thông tin từ các bộ phận, phòng ban khác.

3

Đơn vị cần thiết kế phần mềm riêng biệt phục vụ cho công tác kế toán quản trị.


5.2.5. Đối với nhân tố “Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị”

Nhân tố cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý chi phối đáng kể đến việc vận dụng công tác KTQT cho CTCP Nước – Môi trường Bình Dương. Theo đó công ty cần chú trọng cải tổ triệt để trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý theo hướng làm công tác báo cáo trách nhiệm quản lý phải được thực hiện hiệu quả và rõ ràng. Cụ thể muốn có được bộ máy làm việc hiệu quả, chủ động và phát huy tối đa tính sáng tạo trong sản xuất và điều hành thì việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, theo đó quả nhà quản lý phải tách bạch được công tác quản lý ở các khâu trong sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ, chức năng cụ thể, tránh hình chính hóa và mang tính chồng chéo.

Ngoài việc phân cấp quản lý chúng ta cần phải xây dựng tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình tách bạch cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu trong hoạt động của công ty; theo đó công ty cần thực hiện cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý cần được cơ cấu theo mô hình quản trị theo hướng đánh giá trác nhiệm hơn là theo cơ cấu hành chính. Ban giám đốc công ty cần có sự đổi mới trong phương thức hoạt động theo chức năng định hướng và kiểm soát. Theo đó, việc tổ chức bộ máy quản lý của công ty cần quan tâm như sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023