Ngoài ra, ngân hàng qua email có thể bao gồm việc sử dụng Internet banking hoặc Mobile banking của KH, trong cả 2 trường hợp, kết quả giao dịch đều được gửi xác nhận qua email mà KH đã đăng ký. Dịch vụ ngân hàng qua email cho đến nay vẫn được coi là một phương thức hữu ích để cung cấp cho KH các thông tin cập nhật, các chương trình quảng bá sản phẩm, ưu đãi của ngân hàng cũng như cung cấp các xác nhận GDĐT cần thiết.
2.1.5. Một số dịch vụ ngân hàng điện tử
2.1.5.1. Dịch vụ thanh toán
Thanh toán điện tử (TTĐT) là cách thức thanh toán thực hiện thông qua phương tiện điện tử. Tiền trong giao dịch TTĐT là tiền điện tử (e-money), không có sự hiện diện của tiền mặt. Tất cả các các giao dịch trong thanh toán số được hoàn thành qua mạng Interet hoặc mạng SWIFT, được thực hiện một ngay lập tức và thuận tiện. Với công nghệ ngày càng tiên tiến, các dịch vụ thanh toán số mới xuất hiện đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn. Các phương thức TTĐT có thể kể đến như thanh toán qua Mobile và Internet, thanh toán qua các thiết bị kết nối điện tử như ATM, POS, thanh toán qua ví điện tử, tiền điện thoại…
Trong đó, dịch vụ thanh toán bằng tiền điện thoại (mobile money) đang đạt những thành công nhất định ở các quốc gia, tuy nhiên yêu cầu một mạng lưới đủ lớn của người sử dụng và một khả năng liên kết tiền mặt và tiền điện thoại di động. Một trong những ưu việt của thanh toán bằng tài mobile money đó là: chi phí đầu tư thấp (một chiếc điện thoại di động cơ bản có thể là đủ, và điện thoại thông minh là không cần thiết), khá đơn giản để sử dụng, tiện lợi về không gian và thời gian, an toàn hơn so với việc sử dụng tiền mặt, giảm nguy cơ bị trộm cắp.
2.1.5.2. Dịch vụ cho vay
Sự phát triển của mobile money, thanh toán trực tuyến và mở rộng dữ liệu người dùng đi kèm đã thúc đẩy cho vay trực tuyến. Ant Financial, một tổ chức hàng đầu toàn cầu về dịch vụ tài chính online và tài chính qua mobile ở Trung Quốc, đã bắt đầu từ nhà cung cấp dịch vụ thanh toán và mở rộng sang lĩnh vực cho vay trên nền tảng số. TD kỹ thuật số sử dụng "alternative data" (từ các nhà cung cấp thanh
toán và các nguồn khác như Internet) và "loan engines" (ví dụ, các thuật toán sáng tạo) để xác định KH có giá trị và cung cấp các khoản cho vay (chủ yếu là tín chấp không có tài sản bảo đảm). Tuy nhiên trên thực tế cho vay trực tuyến mới chỉ thực sự phát triển ở các công ty công nghệ mà chưa được đầu tư nhiều bởi các NHTM.
Các công ty, tập đoàn công nghệ tài chính (Fintech) tại Hoa Kỳ đã phát triển từ 5% năm 2013 lên đến 38% thị trường cho vay cá nhân không có bảo đảm trong năm 2018 (TransUnion 2019). Trong khi đó ở Anh Quốc, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành mục tiêu chiến lược của các công ty Fintech khi DNVVN chỉ nhận được khoảng 2% các khoản vay ngân hàng, mặc dù họ đã đóng góp đến 50% GDP và 70% công ăn việc làm cho toàn quốc gia. Tuy nhiên thị trường TD số vẫn còn là rất thấp dù đã tăng trưởng gấp đôi từ 2015- 2017, nhưng vẫn chỉ ở mức 0,5% GDP ở hầu hết các quốc gia. Theo IMF (2020), các công ty TD Fintech bị chi phối bởi Trung Quốc, tiếp theo là Hoa Kỳ và Anh Quốc, cùng với nhau, họ đã chiếm đến 98% của thị trường TD Fintech vào năm 2017. Có nhiều điểm khác nhau giữa các quốc gia về loại hình cho vay, cụ thể TD tiêu dùng khá chi phối tại Trung Đông và các nước Trung Á và Hoa Kỳ, còn cho vay kinh doanh thống trị tại Anh Quốc, Châu Á và Tây bán cầu trừ Mỹ.
2.1.5.3. Dịch vụ tiết kiệm
Các NHTM cung cấp dịch vụ tiết kiệm truyền thống bằng cách mở các sổ tiết kiệm ghi nhận số tiền mà KH gửi vào với các kỳ hạn nhất định. Người dân/tổ chức thực hiện tiết kiệm để chi trả cho các chi phí trong tương lai như mua hàng lớn, đầu tư vào giáo dục hoặc kinh doanh, đề phòng bệnh tật tuổi già, và các trường hợp khẩn cấp xảy ra. Theo WB (2017), có đến 54% người lớn ở các nước phát triển trên toàn thế giới theo báo cáo có các khoản tiền để dành ở nhiều hình thức khác nhau (gửi tiết kiệm ngân hàng và các tổ chức tài chính vi mô, cất giữ tại nhà, gửi các hội, quỹ, người thân…) trong các năm qua nhưng chỉ 25% người lớn trên toàn cầu có các khoản tiết kiệm chính thức được ghi nhận tại một ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác.
Ở các nền kinh tế đang phát triển, một thay thế phổ biến để tiết kiệm tại một tổ chức TC-NH là sử dụng một câu lạc bộ không chính thức hoặc một người ở bên ngoài gia đình như người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Cách gọi chung của hình thức của câu lạc bộ tiết kiệm không chính thức là hiệp hội TD, tiết kiệm luân phiên. Những hiệp hội thường hoạt động bằng việc tổng hợp các khoản tiền gửi hàng tuần/hàng tháng của các thành viên và giải ngân toàn bộ tiền cho một thành viên khác nhau mỗi tuần/mỗi tháng. Các khoản tiết kiệm dưới các hình thức khác được người dân sử dụng dưới dạng tiền mặt tại nhà hoặc lưu dưới dạng đồ trang sức, gia súc, hoặc bất động sản. Các hình thức tiết kiệm này không nhận được sự đảm bảo an toàn, dễ gặp rủi ro về mất cắp, thiên tại, rủi ro giảm giá trị và rủi ro mất thanh khoản.
Nhờ công nghệ tài chính, tiết kiệm tiền tại một ngân hàng hoặc một loại hình tổ chức tài chính chính thức trên nền tảng kỹ thuật số (digital savings) cho thấy nhiều lợi ích tiềm năng hơn việc tiết kiệm tiền mặt tại nhà cũng như các hình thức tiết kiệm truyền thống khác. Một lợi thế của tiết kiệm kỹ thuật số đó là an toàn không dùng tiền mặt, thuận tiện, nhanh chóng, kiểm soát chi tiêu không có kế hoạch và do đó khuyến khích quản lý tiền tốt hơn. Các tùy chọn để tiết kiệm kỹ thuật số bằng cách sử dụng một tài khoản chính tên của họ có bảo mật cũng có thể tăng cường trao quyền kinh tế của phụ nữ, người yếu thế, được kiểm soát tốt hơn tiền tiết kiệm của họ (Ashraf et al., 2010 và Karlan et al., 2014a). Việc khuyến khích người dân gửi tiết kiệm số thông qua mở cái tài khoản miễn phí với lãi suất tiền gửi hấp dẫn sẽ góp phần hạn chế các khoản tiết kiệm phi chính thức, không đem lại lợi nhuận cho cả người dân và nền kinh tế.
2.1.5.4. Dịch vụ bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm ngày càng chứng minh là một công cụ quan trọng trong việc quản lý rủi ro tài chính khi có những sự kiện bất ngờ diễn ra như ốm đau đột ngột, mất mùa, thiên tai, hoặc thu nhập mất mát do cái chết của trụ cột gia đình (Karlan và Morduch, 2010). Trong khi nhiều người sử dụng tiết kiệm và TD để quản lý rủi ro tài chính và có thể chia sẻ rủi ro thì bảo hiểm chính thức cung cấp các
lợi ích bổ sung. Các sản phẩm bảo hiểm chính thức tập hợp rủi ro trong một nhóm dân số lớn hơn nhiều, điều này mang lại cho các hộ gia đình mức bảo hiểm rộng hơn mức họ có nếu chỉ dựa vào tiền tiết kiệm, tín dụng. Điều này đặc biệt đúng đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp với tài sản hạn chế.
Bảo hiểm kỹ thuật số (digital insurance) được phát triển như một sản phẩm bán chéo mà ngân hàng và các tổ chức tài chính kết hợp với các công ty bảo hiểm cung cấp cho KH sẵn có thông qua phương tiện số. Chỉ cần KH có tài khoản và thu nhập trả qua thẻ ngân hàng là có thể mở một hợp đồng bảo hiểm với các quyền lợi và giá trị bảo hiểm khác nhau tùy theo thu nhập và nhu cầu của KH.
Tính chất vô hình và hạn chế về thủ tục giấy tờ của bảo hiểm cho thấy rằng bảo hiểm nên được triệt để số hóa, nhưng khả năng đó hiếm khi đạt được đến nay. Thông tin về rủi ro được bảo hiểm và các điều kiện trao đổi giữa công ty bảo hiểm và KH của mình, cơ sở pháp lý cho quyền và nghĩa vụ của các bên, mà đáng chú ý là bao gồm thanh toán ưu tiên và yêu cầu bồi thường đều được tiến hành số hóa. Các công ty bảo hiểm hàng đầu đầu nắm lấy các công cụ của trí tuệ nhân tạo và Big Data có sẵn tại thời điểm để tạo bảo lãnh phát hành tự động cho hệ thống bảo hiểm nhân thọ và tàn tật.
Đánh giá khả năng bảo hiểm của những người có tiền sử bệnh lý bất lợi là nhiệm vụ được thực hiện bởi người bảo lãnh có chuyên môn cao và sự khan hiếm về chuyên gia đã là một yếu tố hạn chế để tiếp cận bảo hiểm rộng rãi hơn. Phần mềm “Hệ thống chuyên gia” cho phép hệ thống hóa các phương pháp chẩn đoán được các chuyên gia này sử dụng các thuật toán ra quyết định bảo hiểm và cho phép số tiền được bảo hiểm ngay tại chỗ khi có mạng internet.
Theo WB (2018), bảo hiểm trên toàn thế giới vẫn còn bị chi phối bởi các quy trình dựa trên giấy. Điều này là do bảo hiểm là một ngành tương đối cũ, với các hãng bảo hiểm lớn nhất có niên đại từ thế kỷ 19. Có nhiều các hãng bảo hiểm trẻ hơn và nhỏ hơn có hệ thống và thủ tục thận trọng để phục vụ thị trường hiện có. Ngoài vấn đề hệ thống đã được cấu hành không dễ để thay thế, các lý do khác cho hạn chế số hóa bảo hiểm đó là các quy định ràng buộc, an ninh mạng và bảo vệ dữ
liệu, và sự không chấp nhận của một số nhóm KH lớn tuổi về chi phí bảo hiểm, lòng tin và hiểu biết về sản phẩm…
Các tiện ích dịch vụ NHĐT phổ biến nhất đang cung cấp tại các ngân hàng cụ thể trong bảng sau đây:
Bảng 2.1: Một số dịch vụ ngân hàng điện tử
Tiện ích | Nội dung | |
1 | Truy cập tài khoản trực tuyến | Truy cập trực tuyến tất cả thông tin tài khoản của một cá nhân/tổ chức (thường là kiểm tra biến động số dư tài khoản, tiết kiệm, khoản vay và thị trường tiền tệ), được cập nhật theo thời gian. |
2 | Chuyển khoản điện tử | Chuyển tiền, bao gồm cả tài khoản tổ chức và cá nhân thông qua các PTĐT như ATM, Mobile banking, Internet banking |
3 | Thanh toán hóa đơn trực tuyến | Thanh toán bất kỳ hóa đơn được chỉ định nào dựa trên các hướng dẫn/ các lệnh chi tự động hoặc không tự động hàng tháng. |
4 | Báo cáo hóa đơn/báo cáo chi tiêu | Xem các báo cáo thanh toán được trình bày bằng điện tử, cho phép khả năng quản lý, phân loại và thống kê hoạt động chi tiêu của chủ tài khoản. |
5 | Thế chấp/ Thẻ TD/ Cho vay trực tuyến/ Tiết kiệm trực tuyến | Tìm kiếm thông tin, nộp đơn yêu cầu và nhận phê duyệt các khoản TD/thế chấp, tra cứu lịch sử vay nợ và trả nợ. Mở tài khoản/ tất toán tiết kiệm trực tuyến. |
6 | Các dịch vụ Ngân hàng “business” | Ngoài các dịch vụ thanh toán và truy cập tài khoản cơ bản, người bán có thể quản lý hộp khóa điện tử của họ để nhận thanh toán, đặt cọc phải thu, cũng như thanh toán chủ động qua mạng. |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên Cứu Tác Động Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Đến Kết Quả Phi Tài Chính Của Ngân Hàng
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Và Tác Động Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Đến Kết Quả Hoạt Động Ngân Hàng
- Máy Rút Tiền Tự Động: Atm (Automatic Teller Machine)
- Một Số Tiêu Chí Đánh Giá Kết Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng
- Đánh Giá Kết Quả Hoạt Động Phi Tài Chính (Non-Financial Performance) Của Ngân Hàng
- Kinh Nghiệm Quốc Tế Trong Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Hướng Tới Mô Hình Ngân Hàng Số Nhằm Nâng Cao Kết Quả Hoạt Động Ngân Hàng
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Tiện ích | Nội dung | |
7 | Dịch vụ KH trực tuyến | Trang web/ứng dụng NH được thiết kế tối ưu nhất để tạo điều kiện tương tác với KH, giúp KH có thể dễ dàng tự phục vụ hơn. Hệ thống e-mail nâng cao với trả lời tự động và định tuyến thông minh cũng giúp cải thiện trải nghiệm dịch vụ KH trực tuyến. |
8 | Bán chéo | Liên kết bán chéo sản phẩm ngân hàng thông qua cơ sở dữ liệu trực tuyến là sự phối kết hợp giữa NH và một hoặc nhiều đối tác để phân phối sản phẩm theo gói, sản phẩm đi kèm: bảo hiểm, cho vay BĐS, mua hàng trả góp…. |
2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử
Để đưa ra được các giải pháp thúc đẩy dịch vụ NHĐT theo hướng tích cực, từ đó gia tăng KQHĐ thì nghiên cứu cần làm rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ NHĐT. Các nhân tố này có thể chia thành 3 nhóm: Ngân hàng, Khách hàng và Môi trường kinh doanh (Phạm Thu Hương, 2012). Cụ thể trong đó:
2.1.6.1. Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng
Quan điểm chiến lược của ban lãnh đạo ngân hàng; Văn hóa tổ chức; Khả năng tương thích của hệ thống ngân hàng lõi; Nguồn lực tài chính; Khả năng kết nối CNTT; Trình độ kỹ năng của nhân viên ngân hàng; An ninh bảo mật của ngân hàng là những yếu tố có ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ NHĐT tại các NHTM.
Goi (2006) đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT tại Malaysia. Sự phát triển dịch vụ NHĐT ở Malaysia chủ yếu xuất phát từ bản thân ngân hàng với chiến lược marketing mới đặc biệt nhằm xây dựng Quan hệ KH điện tử (E-CRM) và nỗ lực cải thiện các hoạt động dịch vụ NH. Ngoài ra, Grandson and Pearson (2004) nghiên cứu về chấp nhận và ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp, góc độ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chile. Kết quả cho thấy
nhóm nhân tố sự sẵn sàng của doanh nghiệp, hiệu quả quản lý, áp lực bên ngoài, khả năng tương thích, và cảm nhận tính hữu dụng là các yếu tố có ý nghĩa đối với quyết định chấp nhận và không chấp nhận TMĐT. Trong đó nhận thức và niềm tin của các nhà quản lý được chứng minh là yếu tố quan trọng nhất.
Cuộc cách mạng số với sức ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn cầu đã có rất nhiều tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam, nhu cầu của người tiêu dùng cũng ngày càng nâng cao và đòi hỏi khả năng đáp ứng nhanh từ phía các ngân hàng. Các ngân hàng cần có định hướng chiến lược để thích nghi với những cạnh tranh ngày càng gay gắt đến từ thị trường. Đặc biệt, trong cuộc cách mạng số hóa như hiện nay, người lãnh đạo ngân hàng cần phải thích nghi và phản hồi nhanh chóng với những thay đổi của thị trường, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ ngân hàng, hướng tới mô hình ngân hàng số.
Bên cạnh đó, văn hóa tổ chức cũng đóng vai trò quan trọng, phản ánh các giá trị cốt lõi, tầm nhìn chiến lược, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh doanh...của mỗi ngân hàng. Mỗi một ngân hàng với một văn hóa tổ chức khác nhau sẽ có những mục tiêu định hướng khác nhau, điều này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh hay chậm, đầu tư ít hay nhiều vào công nghệ điện tử ngân hàng. Các NHTMCP ở Việt Nam hầu hết đang cho thấy văn hóa tổ chức cũng như quan điểm của nhà lãnh đạo cởi mở, cập nhật với sự biến động của thị trường. Trong khi vẫn còn một số NHTM nhà nước chưa theo kịp sự thay đổi của công nghệ và xu hướng hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng.
2.1.6.2. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng:
Thói quen sử dụng tiền mặt và khả năng chấp nhận công nghệ chính là hai nhân tố chính thuộc về KH có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển dịch vụ NHĐT ở các quốc gia. Nghiên cứu của David, Bagozzi và Warshaw (1989) được coi là nền tảng của các nghiên cứu sau này khi tác giả đã đưa ra lý thuyết mô hình chấp nhận công nghệ TAM (Technology Acceptance Model) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận của KH đối với các sản phẩm và dịch vụ ứng dụng CNTT. Trong mô hình TAM, có hai yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi của người sử dụng
công nghệ đó là nhận thức được tính hữu ích (Perceived usefulness- PU) và cảm nhận dễ sử dụng (Perceived ease of use - PEOU).
Hai yếu tố này bị chi phối bởi các yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị bên ngoài như: thói quen sử dụng tiền mặt, tâm lý e ngại rủi ro đối với công nghệ, hay các yếu tố liên quan đến thu nhập, trình độ, ngôn ngữ, kỹ năng và điều kiện cơ sở vật chất của ngân hàng cũng như của một quốc gia. Ngoài ra mức sống của người dân cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của các dịch vụ TTĐT. Khi người dân có mức thu nhập thấp sẽ ít có nhu cầu các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Thanh toán bằng tiền mặt vẫn được người dân sử dụng nhiều nhất thay vì các dịch vụ TTĐT. Vì thế, cải thiện thu nhập người dân, trang bị kiến thức và tập thói quen sử dụng công nghệ là những yếu tố tiên quyết cho việc phát triển các dịch vụ TC- NH nói chung và dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng.
2.1.6.3. Nhóm nhân tố môi trường kinh doanh
Hệ thống TTĐT quốc gia; Hạ tầng CNTT của doanh nghiệp và xã hội; Chính sách và pháp luật về TMĐT, NHĐT của Nhà nước; Cạnh tranh giữa các NH trong nước và quốc tế là những yếu tố thuộc nhóm môi trường kinh doanh có ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT.
Sarokolaei (2012) trong nghiên cứu của mình đã đã kiểm định giả thuyết các rào cản đối với sự phát triển của dịch vụ NHĐT tại Iran thông qua phiếu hỏi chuyên gia. Kết quả cho thấy kỹ thuật công nghệ, yếu tố xã hội- pháp luật và chiến lược phát triển ngân hàng là các yếu tố chính có liên quan mật thiết đến thành công hay tồn tại của dịch vụ NHĐT tại Iran trong khi yếu tố tài chính-kinh tế không có ảnh hưởng rõ rệt.Tương tự kết luận của Goi (2006), thành quả của cách mạng đổi mới công nghệ cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ là yếu tố có tác động trực tiếp đến phát triển dịch vụ NHĐT.
Sự phát triển dịch vụ NHĐT đòi hỏi cao về đổi mới công nghệ trong dịch vụ tài chính cho khách hàng. Hiện nay, trong cuộc CMCN 4.0, phần lớn các quốc gia khắp toàn câu đều đang nỗ lực để có thể thực hiện số hóa, bắt kịp xu thế toàn cầu, đòi hỏi cần có một nền tảng kỹ thuật số phát triển thông qua cơ sở hạ tầng CNTT,