trung tâm dữ liệu, nhân lực công nghệ và đảm bảo an ninh an toàn... Có thể thấy việc ứng dụng và phát triển các dịch vụ NHĐT phụ thuộc tương đối nhiều vào điều kiện nền tảng kỹ thuật số của một quốc gia.
2.2. Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng
2.2.1. Khung xếp hạng hoạt động ngân hàng CAMELS
Trong những năm gần đây, một trong những mô hình được sử dụng nhiều nhất để ước tính hiệu suất hoạt động của ngân hàng là khung xếp hạng CAMELS. Trên thực tế, khung phân tích dựa trên hệ thống xếp hạng CAMELS, là một hệ thống đánh giá được tạo bởi các nhà quản lý ngân hàng liên bang để đánh giá hiệu suất tổng thể của các NH Hoa Kỳ (Rose & Hudgins, 2012). Từ năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã khuyến nghị sử dụng CAMELS để đánh giá sự lành mạnh của các tổ chức tài chính bao gồm các NHTM. Hệ thống này được phát triển bởi các cơ quan quản lý của các NH Hoa Kỳ: NH Dự trữ Liên bang Mỹ, Văn phòng kiểm soát tiền tệ Mỹ và Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ đều sử dụng hệ thống này.
Nghiên cứu của Barr và cộng sự (2002) đưa ra nhận định rằng các tiêu chí đánh giá của CAMELS đã trở thành một công cụ cụ thể và chi tiết, đồng thời là không thể thiếu đối với các nhà giám sát và cơ quan quản lý. Hệ thống đánh giá này với mong muốn lành mạnh hóa hoạt động NH bằng cách xem xét các khía cạnh khác nhau của NH dựa trên nhiều nguồn thông tin khác nhau như báo cáo tài chính, nguồn tài trợ, dữ liệu kinh tế vĩ mô, ngân sách và dòng tiền. Các NH trung ương chịu trách nhiệm giám sát các NH ở mỗi quốc gia thông qua việc sử dụng hệ thống xếp hạng để đánh giá sự đúng đắn của các NH (Doumpos & Zopounidis, 2010).
Từ viết tắt CAMELS là viết tắt của: “Capital adequacy”- Mức độ an toàn vốn; “Asset quality”- Chất lượng tài sản có; “Management”- Khả năng quản lý; “Earning”- Khả năng sinh lời, và “”Liquidity” -Thanh khoản. Các nhà điều hành đã bổ sung yếu tố “Sensitivity” - Độ nhạy cảm, để đánh giá rủi ro thị trường liên quan đến thay đổi lãi suất và các yếu tố khác, nhất là trong cuộc khủng hoảng của thị trường tài chính (Kandrac, 2014).
(1) Mức độ an toàn vốn của NH (Capital adequacy):Mức độ an toàn vốn là một chỉ tiêu cần thiết để đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của NH, được tính toán thông qua bảng cân đối kế toán NH. Tỷ lệ an toàn vốn viết tắt là CAR được Ủy ban Basel giám sát NH đưa ra có tính đến các rủi ro (RR) tài chính như RR ngoại hối, TD và lãi suất bằng cách gắn trọng số RR cho tài sản của NH. Đây là tỷ lệ giá trị sổ sách của vốn tự có (chủ yếu vốn cấp 1,2) của NH so với giá trị sổ sách của tài sản có điều chỉnh RR. Tỷ lệ cao hơn cho thấy mức độ an toàn vốn cao hơn. Hiệp định Basel I năm 1992 đã thực thi tỷ lệ an toàn vốn đối với tài sản điều chỉnh RR của các NHTM, trong đó, vốn tự có phải bằng hoặc vượt quá 4% tài sản có RR của các NHTM. Tỷ lệ này được tăng lên thành 8% ở Basel II, III.
(2) Chất lượng tài sản có (Asset quality):Rủi ro TD là một trong những yếu tố quyết định tình hình hoạt động của một NHTM. Rủi ro TD phụ thuộc vào chất lượng tài sản do một NHTM cá nhân nắm giữ. Chất lượng tài sản do một NHTM nắm giữ phụ thuộc vào các rủi ro cụ thể, xu hướng của các khoản nợ xấu, và lợi nhuận của người vay NH, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Và Tác Động Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Đến Kết Quả Hoạt Động Ngân Hàng
- Máy Rút Tiền Tự Động: Atm (Automatic Teller Machine)
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử
- Đánh Giá Kết Quả Hoạt Động Phi Tài Chính (Non-Financial Performance) Của Ngân Hàng
- Kinh Nghiệm Quốc Tế Trong Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Hướng Tới Mô Hình Ngân Hàng Số Nhằm Nâng Cao Kết Quả Hoạt Động Ngân Hàng
- Kết Quả Hoạt Động Và Thực Trạng Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Chất lượng tài sản do các NHTM nắm giữ có thể được đánh giá qua các yếu tố như: Mức độ tập trung cho vay theo ngành, khu vực (ví dụ như lĩnh vực nông nghiệp phải chịu rủi ro liên quan đến thời tiết, khí hậu); cơ cấu KH (Cá nhân, hộ kinh doanh hay doanh nghiệp); Chất lượng và giá trị của tài sản thế chấp; Mục đích vay; Tỷ lệ dự phòng RR cho vay; Chất lượng và giá trị của tài sản thế chấp (nếu có); Rủi ro chính trị: ví dụ các chương trình xóa nợ, trần lãi suất, cho vay trực tiếp vào các lĩnh vực hoặc nhóm người cụ thể (ADB, 2018).
(3) Khả năng quản lý (Management):Quản lý là chìa khóa cho hiệu suất NH nhưng rất khó đo lường. Đây là một yếu tố định tính áp dụng cho các tổ chức đơn lẻ. Tuy nhiên, một số chỉ số có thể cùng đóng vai trò tham chiếu đánh giá chất lượng quản lý như: (i) Tỷ lệ tăng trưởng: tăng trưởng tổng tài sản, tăng trưởng cho vay, tăng trưởng danh mục đầu tư; (ii) Hiệu suất hoạt động: Tỷ lệ CP hoạt động/thu nhập; chi phí/mỗi nhân viên; thu nhập/ mỗi nhân viên,; (iii) Thị phần: thị phần tiền gửi, thị phần TD; (iv) Hệ thống vận hành: mức độ tự động hóa, nhận diện thương
hiệu, mức độ tuân thủ; (v) Lợi ích cổ đông: mức độ tuân thủ mục tiêu chiến lược, chính sách chi trả cổ tức, lợi nhận / VCSH… (ADB, 2018).
(4) Khả năng sinh lời (Earnings):Đây là yếu tố không thể thiếu trong đánh giá hiệu suất của một NHTM. Các NHTM không có lãi thường xuyên thường có nguy cơ mất khả năng thanh toán và mặt khác, lợi nhuận cao bất thường có thể phản ánh rủi ro quá mức của một NHTM. Các chỉ số thể hiện khả năng sinh lời có thể kể đến như: Lợi nhuận / tài sản, lợi nhuận / VCSH, tỷ lệ chênh lệch lãi suất, tỷ lệ thu nhập chênh lệch, tỷ suất lợi nhuận gộp. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động và tỷ suất lợi nhuận ròng là các chỉ số lợi nhuận thường được sử dụng tại các NH thường mại (Rostami, 2015).
(5) Thanh khoản (Liquidity):Rủi ro thanh khoản đe dọa khả năng thanh toán của các tổ chức tài chính. Trong trường hợp của các NHTM, loại RR thanh khoản đầu tiên phát sinh khi người gửi tiền của các NHTM tìm cách rút tiền của họ. Các NHTM phải vay thêm vốn hoặc bán tài sản với giá thấp để trả các khoản nợ tiền gửi. NH trở nên mất khả năng thanh toán nếu giá bán của tài sản không đủ để đáp ứng việc rút tiền. Loại RR thanh khoản thứ hai phát sinh là khi nhu cầu cho các khoản vay tăng bất ngờ trong khi không thể được đáp ứng do thiếu vốn.
Các NHTM có thể huy động vốn bằng cách giảm tài sản tiền mặt của họ, vay thêm tiền trong thị trường tiền tệ và bán bớt các tài sản khác với giá dưới mức kỳ vọng. Cả rủi ro thanh khoản bên trách nhiệm (rủi ro loại thứ nhất) và rủi ro thanh khoản bên tài sản (rủi ro loại thứ hai) đều ảnh hưởng không tốt đến hoạt động tài chính của các NHTM (Saunders và Cornett, 2006).
Tuy nhiên việc duy trì vị thế thanh khoản cao để giảm thiểu rủi ro như vậy cũng có tác động tiêu cực của các tổ chức tài chính vì lợi nhuận trên tài sản có tính thanh khoản cao gần như bằng không. Do đó, các TCTC nên đánh đổi giữa vị thế thanh khoản và lợi nhuận để họ có thể duy trì một hiệu suất tốt. Mức độ đánh giá tính thanh khoản của NHTM có thể được đo lường bằng cách phân tích cung và cầu thanh khoản. Theo cách tiếp cận này, tổng thanh khoản ròng được thực hiện bằng cách khấu trừ tổng số sử dụng thanh khoản khỏi tổng số nguồn thanh khoản. Ngoài
ra, các tỷ lệ đánh giá thanh khoản khác nhau như: Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn, ngắn hạn/Tổng tiền gửi; Tỷ lệ cho vay/tiền gửi; Tỷ lệ bảo đảm thanh khoản: tài sản Có thanh khoản cao phải lớn hơn hoặc bằng tài sản Nợ phải thanh toán trong vòng 30 ngày (ADB, 2018).
(6) Độ nhạy cảm rủi ro (Sensitivity):Các NHTM ngày một đa dạng các hoạt động như cho vay và đi vay, giao dịch ngoại hối và đầu tư chứng khoán. Tất cả những điều này phải chịu rủi ro thị trường như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, và rủi ro giá tài sản và hàng hóa. Khi hiệu suất của một NHTM là nhạy cảm hơn với rủi ro thị trường nghĩa là nguy hiểm hơn so với trường hợp ít nhạy cảm hơn. Rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro giá cổ phiếu và rủi ro giá hàng hóa là những chỉ số nhạy cảm với rủi ro thị trường.
Cẩm nang Đánh giá NHTM được ban hành bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã mô tả năm mức xếp hạng tổng hợp như sau (Siems và Barr, 1998).
CAMELS = 1 : một NH về cơ bản là có hiệu suất hoạt động tốt trong mọi khía cạnh.
CAMELS = 2 : một NH nhìn chung là họat động tốt tuy nhiên có một vài điểm yếu cần khắc phục.
CAMELS = 3 : một NH có điểm yếu về tài chính, hoạt động hoặc chưa bảo đảm tính tuân thủ gây ra sự lo ngại trong quá trình đánh giá.
CAMELS = 4 : một NH có điểm yếu tài chính nghiêm trọng dẫn đến có thể làm giảm khả năng hoạt động và tồn tại trong tương lai.
CAMELS = 5 : một NH có điểm yếu tài chính quan trọng khiến cho dự báo khả năng thất bại rất cao trong thời gian tới.
Mô hình CAMELS của các NH được bảo mật rất cao, vì nó bao gồm thông tin nội bộ nhạy cảm được thu thập trong quá trình điều tra riêng của từng NH, ngoài thông tin pháp lý về tình hình tài chính của NH có sẵn cho công chúng (Hirtle & Lopez, 1999). Do vậy mô hình CAMELS thông thường chỉ dành cho quyết định quản lý NH, không được công khai và chỉ được biết đến một cách tuyệt mật đối với
quản lý cấp cao của NH và nhân viên giám sát phù hợp tại các bộ phần quản lý liên quan.
2.2.2. Một số tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng
2.2.2.1. Đánh giá kết quả hoạt động tài chính (financial performance) của ngân hàng
Piyu (1992) chỉ ra rằng, hiện nay, các chỉ tiêu chính thường dùng để đánh giá mức độ vững chắc về tài chính của một NHTM cũng như chất lượng quản lý của nó. Elizabeth và Ellot (2004) nhận định tất cả các chỉ số hiệu quả tài chính như tỷ lệ lãi suất, lợi nhuận trên tài sản và mức độ an toàn vốn có quan hệ tích cực với chất lượng dịch vụ khách hàng. Việc đánh giá KQHĐ thông qua các chỉ tiêu tài chính là cần thiết, bên cạnh việc xây dựng báo cáo tào chính bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo thu nhập, báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu và thuyết minh báo cáo tài chính (Salhuteru & Wattimena, 2015).
Thước đo phổ biến nhất để đánh giá hoạt động của ngân hàng là khả năng sinh lời. Khả năng sinh lời là được đo lường bằng các tiêu chí cơ bản như ROA, ROE, NIM và các chỉ tiêu về lợi nhuận (Mabwe Kumbirai và Robert Webb, 2010; Bikker, 2010)
(i) Lợi nhuận trước thuế:
Lợi nhuận trước thuế =Thu nhập từ lãi + Thu nhập ngoài lãi = (Thu lãi – Chi lãi) + (Thu ngoài lãi – Chi ngoài trả lãi)
Chỉ tiêu này đánh giá chi tiết về lợi nhuận thu được của NH, được tính toán trên thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi. Hiện nay ở các NHTM thu nhập từ lãi vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Cụ thể:
1. Thu lãi là khoản thu nhập từ lãi hoạt động cho vay và chi lãi là khoản lãi ngân hàng phải trả cho hoạt động huy động vốn.
2. Thu ngoài lãi bao gồm các thu nhập từ hoạt động dịch vụ (chủ yếu là dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán), hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động mua bán
chứng khoán và các thu nhập khác của NH... trong đó chi ngoài lãi là các chi phí hoạt động của NH ngoài chi trả lãi huy động vốn.
(ii) Lợi nhuận sau thuế:
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN
Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế đánh giá kết quả lợi nhuận cuối cùng mà NHTM nhận được sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách. Chỉ tiêu này phản ánh một phần mức đóng góp của NHTM cho Nhà nước, thể hiện hiệu quả về mặt xã hội của ngân hàng.
(iii) Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng tạo ra thu nhập từ tài sản của NH là bao nhiêu phần trăm hay với một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Moody’s Investors Service đưa ra tỷ lệ ROA hợp lý của các ngân hàng là ≥ 1%.
Kết quả chỉ tiêu này càng lớn đồng nghĩa với việc NH sử dụng một cơ cấu tài sản hợp lý, chính sách kinh doanh và đầu tư tài sản hiệu quả, khả năng tạo lợi nhuận dựa trên phần tài sản của NH là cao trong kỳ phân tích, đánh giá.
(iv) Tỷ suất lợi nhuận trên VCSH (ROE):
Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả VCSH (VCSH) của NH, đồng thời phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận ròng của NH trên một đồng VCSH. Theo Moody’s Investors Service, ROE ≥ 12% - 15% là ngân hàng hoạt động hiệu quả.
Nếu VCSH không đổi, ROE cao được đánh giá là tốt vì ngân hàng có khả năng gia tăng lợi nhuận trên VCSH, hay có nghĩa là NH đã sử dụng một cách tối ưu VCSH của mình.
Các chỉ tiêu ROA, ROE thường được nhà đầu tư và hội đồng quản trị ngân hàng sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các tỷ lệ
này thể hiện khả năng sinh lời của đồng VCSH bỏ ra và khả năng sử dụng tài sản của NH đạt hiệu quả cao hay thấp, là cơ sở để ngân hàng đánh giá tình hình tài chính và đưa ra các chiến lược hoạt động phù hợp.
(v) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM - Net interest margin):
Trong đó: Thu nhập lãi thuần = Thu lãi từ các khoản cho vay và đầu tư - Chi phí trả lãi tiền gửi và các khoản nợ khác
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả trong quá trình tạo vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, cụ thể là chênh lệch giữa thu nhập từ lãi tín dụng so với chi phí trả lãi huy động của NH. Trên thực tế, hoạt động chính của NH vẫn là tín dụng, do vậy NIM là chỉ tiêu quan trọng đánh gía KQHĐ của ngân hàng. Chỉ tiêu càng cao càng chứng tỏ ngân hàng họat động kinh doanh có hiệu quả và ngược lại, ngân hàng đang gặp phải khó khăn trong kinh doanh khi chỉ tiêu này được đánh giá thấp. Standard & Poor's khuyến nghị tỷ lệ NIM tối ưu ở trong khoảng 3% đến 5%.
(vi) Một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá mức độ an toàn hoạt động ngân hàng
Hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR:
Chỉ tiêu này đo lường mức độ an toàn vốn tối thiểu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hệ số an toàn vốn tối thiểu đánh giá hiệu quả kinh doanh gắn với vấn đề an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại cũng như phản ánh khả năng sử dụng vốn để bù đắp các tổn thất của tài sản có rủi ro. Theo thông lệ quốc tế, quy định của Basel III đưa ra: CAR ≥ 8%, còn tại Việt Nam quy định CAR ≥ 9%.
Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi:
Các ngân hàng đưa ra tỷ lệ cho vay tối đa/tổng tiền gửi theo quy định nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản, tránh tình trạng cung thanh khoản không đáp ứng được cầu thanh khoản.
Ở Việt Nam, chỉ tiêu này quy định tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi theo VNĐ, bao gồm VNĐ và các loại ngoại tệ được quy đổi sang VNĐ tại các TCTD đang hoạt động tai Việt Nam. Theo quy định của NHNN Việt Nam, các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài đuộc yêu cầu duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi cụ thể như sau: NHTM nhà nước: 90%; NH hợp tác xã: 80%; NHTMCP, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài: 80% và Chi nhánh NH nước ngoài: 90%.
Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày/ Tỷ lệ đảm bảo an toàn thanh khoản (Liquidity Coverage Ratio- LCR)
Trong đó:
LCR: Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày Y: Tài sản có tính thanh khoản cao;
Z: Dòng tiền ra ròng trong 30 ngày tiếp theo, tức là chênh lệch giữa dòng tiền ra của 30 ngày liên tiếp kể từ ngày hôm sau và dòng tiền vào của 30 ngày liên tiếp kể từ ngày hôm sau.
Basel III yêu cầu tỉ lệ LCR >100% có nghĩa là yêu cầu các ngân hàng phải duy trì đủ tài sản thanh khoản cao (high-quality liquid assets), có thể chuyển ngay sang tiền mặt để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính bất thường trong vòng 30 ngày.
Theo quy định của NHNN Việt Nam, các TCTD hoặc chi nhánh NH nước ngoài xác định dòng tiền ra ròng đối với VNĐ trong 30 ngày tiếp theo là dương, thì cần phải duy trì tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày tối thiểu cụ thể như sau: NHTM: 50%; Chi nhánh NH nước ngoài: 50%; TCTD phi ngân hàng: 20% NH hợp tác xã: 50%. Còn đối với các TCTD hay chi nhánh NH nước ngoài xác định dòng tiền ra ròng đối với ngoại tệ trong 30 ngày tiếp theo là dương, NHNN Việt Nam yêu