Cơ Sở Lý Luận Và Giả Thuyết Nghiên Cứu Về Năng Lực Động Của Doanh Nghiệp Bán Lẻ


hoạt động kinh doanh quốc tế nói riêng. Trong đó, đáng chú ý là nghiên cứu đã nhận dạng các thành tố năng lực động trên cơ sở phân chia thành hai nhóm: nhóm năng lực động chung (gồm bốn năng lực) và nhóm năng lực động cụ thể (gồm ba năng lực) của các DNBL. Từ việc nhận dạng các yếu tố năng lực động, nghiên cứu đã đưa ra được mô hình các yếu tố năng lực động của các DN quốc tế bán lẻ hàng may mặc. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là chưa tiến hành kiểm định mô hình nghiên cứu này để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến năng lực động của các DN quốc tế bán lẻ hàng may mặc.

Tiếp tục từ nghiên cứu 2013, Frasquet & cộng sự (2018) tập trung nghiên cứu khả năng tích hợp sự gắn kết với năng lực động trong hoạt động quốc tế hóa ngành bán lẻ thời trang. Trên cơ sở tổng hợp các công trình nghiên cứu về lý thuyết bán lẻ nói chung, về ngành bán lẻ, và năng lực động trong ngành bán lẻ, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn chuyên sâu nhằm tìm ra các thành tố của năng lực động của các DN thực hiện hoạt động thương mại quốc tế với ngành bán lẻ thời trang. Đối tượng phỏng vấn là các nhà quản trị cấp cao của bốn DN bán lẻ thời trang của Anh và bốn nhà phân tích đầu tư chuyên về mảng kinh doanh ngành hàng thời trang của các DN bán lẻ thời trang có quy mô vừa. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra bốn yếu tố của năng lực động trong ngành bán lẻ thời trang và đã cho thấy mức độ tác động của các yếu tố này đến năng lực động là khác nhau. Cụ thể các thành tố của năng lực động mà bài viết đưa ra gồm: năng lực thích ứng (thuộc nhóm năng lực động chung); năng lực quản trị tri thức (thuộc nhóm năng lực động chung); năng lực xây dựng thương hiệu (thuộc nhóm năng lực động cụ thể cho ngành bán lẻ); và năng lực quản trị kênh (thuộc nhóm năng lực động cụ thể cho ngành bán lẻ). Như vậy, nghiên cứu của Frasquet & cộng sự (2018) được tiếp tục phát triển và mở rộng từ tiền nghiên cứu của chính tác giả vào năm 2013. Tại đây, trên cơ sở kết nối các hoạt động trong DN, tác giả đã tổng hợp lại từ bảy thành tố của năng lực động được khám phá trước đó thành bốn nhóm năng lực động được phát hiện từ nghiên cứu này. Đóng góp của nghiên cứu là đã nhận dạng và phân biệt được các thành tố của năng lực động, đồng thời chỉ rõ các thành tố năng lực động chung và các thành tố năng lực động riêng, đặc thù của ngành bán lẻ hàng thời trang may mặc. Tuy nhiên, cũng như nghiên cứu trước đó, nghiên cứu lần này của Frasquet & cộng sự (2018) mới chỉ tập trung ở phỏng vấn chuyên sâu một số lượng nhỏ các nhà quản trị của chỉ 5 DN. Do vậy, mức độ tin cậy còn chưa cao. Thêm vào đó, tác giả chưa thực hiện nghiên cứu kiểm định giả thuyết nghiên cứu và mới chỉ tập trung vào khách thể là các DN may mặc có hoạt động thương mại quốc tế của nước Anh.

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu được chỉ ra ở trên, tác giả thực hiện tổng hợp


các thành tố năng lực động, các thực chứng nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố năng lực động và sự tác động của các năng lực động tới kết quả hoạt động kinh doanh. Chi tiết bảng tổng hợp được đính kèm ở Phụ lục 2.

1.3 Khoảng trống nghiên cứu

Lý thuyết về năng lực động đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng bức tranh toàn cảnh về nghiên cứu cạnh tranh. Có thể thấy, nghiên cứu về năng lực động là một chủ đề cần được tiếp tục quan tâm và đầu tư nghiên cứu. Trong điều kiện hiện tại, với sự ảnh hưởng và biến động mạnh mẽ của nền kinh tế giới, nghiên cứu về năng lực động lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết vì năng lực động được xem là yếu tố quan trọng giúp DN thích ứng với những biến đổi của môi trường và tăng cường tiềm lực cạnh tranh cho DN. Do vậy, cần tiếp tục có sự quan tâm cho các nghiên cứu về chủ đề năng lực động, đặc biệt là các nghiên cứu thực chứng, gắn với khách thể nghiên cứu là các nền kinh tế đang phát triển điển hình như Việt Nam nói riêng và các quốc gia đang phát triển nói chung.

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu và bảng tổng hợp tổng quan (Phụ lục 2) có thể chỉ ra một số khoảng trống sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu thực chứng nhằm nhận dạng các thành tố năng lực động và nhìn nhận chúng dưới vai trò và vị trí của các năng lực động tổng quát và cụ thể trong từng ngành nghề kinh doanh còn ít được quan tâm và thực hiện. Mặc dù các tiền nghiên cứu đã chỉ ra các thành tố năng lực động nhưng các thành tố năng lực động tại mỗi chủ đề và khách thể nghiên cứu là khác nhau. Thêm vào đó, ngoài một số nghiên cứu điển hình xem xét cơ chế tác động của các năng lực động đến các năng lực tác nghiệp và biến các năng lực tác nghiệp trở thành những thành tố năng lực động mới của DN (Banjongpraset, 2013; Frasquet & cộng sự, 2018) thì hầu hết các nghiên cứu tiếp cận thành tố năng lực động dưới vai trò và vị trí tương đương nhau. Trong khi đó, mỗi loại hình DN có xu hướng phát triển năng lực động ở các dạng thức khác nhau; dẫn đến các thành tố năng lực động cần được tiếp cận ở nhiều lăng kính và cấp độ riêng biệt. Chính vì vậy, việc nhận dạng các thành tố, đặc điểm và cơ chế tác động của các năng lực động là rất cần thiết, vì chúng giúp DN đưa ra các quyết định nuôi dưỡng và phát triển các năng lực trọng yếu một cách đúng đắn và hiệu quả.

Thứ hai, các nghiên cứu thực chứng về năng lực động gắn với khách thể nghiên cứu là các DN trong ngành bán lẻ tại quốc gia đang phát triển điển hình như Việt Nam còn thiếu. Mặc dù đã có một vài nghiên cứu thực hiện nhận dạng các thành tố năng lực động của DNBL như Cao (2011, 2015), Frasquet & cộng sự (2013), Frasquet & cộng sự (2018) nhưng khách thể DNBL tại các nghiên cứu này lại tập trung vào


nhóm DNBL đa quốc gia tại Trung Quốc (Cao, 2011) hay tại các DNBL mặt hàng thời trang tại Anh Quốc (Frasquet & cộng sự, 2013; Frasquet & cộng sự, 2018). Thêm vào đó, tại Việt Nam, mặc dù thời gian qua đã có các công trình nghiên cứu về ngành bán lẻ nội địa với các chủ đề nghiên cứu khá đa dạng và phong phú nhưng nghiên cứu cụ thể về năng lực động còn ít được quan tâm và thực hiện; trong khi đó, với cấu trúc cạnh tranh ngành bán lẻ thay đổi liên tục và khó lường nên cần thiết phải tiếp tục có các công trình nghiên cứu tiếp theo tập trung giải quyết bài toán thị trường biến động này.

Thứ ba, cần tiếp tục thực hiện các nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ và sự tác động của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những tác động khác nhau rõ rệt trong mối quan hệ giữa năng lực động với kết quả hoạt động kinh doanh. Cụ thể, có hai trường phái quan điểm về đặc điểm mối quan hệ này: quan hệ mang tính tác động trực tiếp và quan hệ mang tính gián tiếp. Với những bất đồng trong quan điểm trên, cần thiết phải tiếp tục có những nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về việc có hay không sự tác động của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh và tính chất của sự tác động như thế nào (là trực tiếp hay gián tiếp).

Từ khoảng trống nghiên cứu được xác định, có thể thấy cần có một nghiên cứu chính thức về năng lực động gắn với khách thể nghiên cứu là các DN trong ngành bán lẻ tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Việc nghiên cứu chủ đề này cho phép giải quyết các khoảng trống nghiên cứu được chỉ ra thông qua việc: (1)- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về năng lực động và chỉ ra các thành tố năng lực động, trong đó nhận dạng năng lực động dưới hai khía cạnh năng lực động tổng quát và năng lực động cụ thể của DNBL; (2)- Tìm ra những kết quả nghiên cứu thực tiễn và tin cậy cơ chế tác động giữa các năng lực động tổng quát tới năng lực động cụ thể và sự tác động của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN; (3)- Từ phát hiện nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực động góp phần cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN đến năm 2025, tầm nhìn 2030.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 – Tổng quan tình hình nghiên cứu đã thực hiện tổng hợp phân tích các đóng góp và những hạn chế còn tồn tại của các tiền nghiên cứu có liên quan đến chủ đề về năng lực động nói chung và tác động của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Chương 1 đã thực hiện tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài thông qua tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và các nghiên cứu thực chứng. Từ các phân tích tổng quan đó, tác giả đã chỉ ra khoảng trống nghiên cứu và xác định định hướng nghiên cứu của luận án là tìm ra các thành tố năng lực động trên hai khía cạnh: năng lực động tổng quát và năng lực động cụ thể của DNBL, xem xét cơ chế tác động các năng lực động tổng quát và năng lực động cụ thể và sự tác động của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN. Trên cơ sở đó, tác giả thực hiện việc xây dựng khung cơ sở lý luận về năng lực động, thiết lập mô hình và giả thuyết nghiên cứu về năng lực động của các DNBLVN ở chương 2.


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ‌

2.1 Một số vấn đề và lý thuyết có liên quan

2.1.1 Lý thuyết về nguồn lực

Lý thuyết về nguồn lực (Resource- based view/ RBV) được phát triển bởi Barney (1991). Theo đó, các yếu tố nguồn lực bên trong được coi là trung tâm cho việc phân tích cạnh tranh của doanh nghiệp. Nguồn lực của doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Barney (1991) định nghĩa “Nguồn lực bao gồm tất cả các tải sản, khả năng, quy trình tổ chức, các thuộc tính, tri thức… mà được kiểm soát bởi doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp xây dựng và triển khai các chiến lược để cải thiện hiệu suất và hiệu quả của doanh nghiệp”. Porter (1985) đưa ra khái niệm về nguồn lực “là tất cả các đầu vào giúp doanh nghiệp sáng tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ”. Đồng quan điểm đó, Nguyễn Hoàng Long & Nguyễn Hoàng Việt (2015) định nghĩa “nguồn lực là những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất của một tổ chức kinh doanh”. Như vậy, tất cả các yếu tố nội bộ doanh nghiệp cấu thành nên hoạt động sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm đầu ra, bao gồm cả sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ đều được coi là nguồn lực.

Căn cứ vào mức độ hiện hữu và khả năng định lượng, nguồn lực được chia làm hai dạng: nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình (Grant, 1991). Nguồn lực hữu hình là những tài sản của doanh nghiệp mà có tính hiện hữu (có thể nhìn thấy được) và có thể định lượng được. Có nhiều cách thức phân chia nguồn lực hữu hình khác nhau. Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2009) chia nguồn lực hữu hình thành hai nhóm: nguồn lực về tài chính (financial resources) và nguồn lực vật chất hữu hình (physical resources). Nguyễn Hoàng Long & Nguyễn Hoàng Việt (2015) cho rằng các nguồn lực hữu hình có thể được chia thành bốn nhóm: nguồn lực tài chính; nguồn lực vật chất; nguồn lực con người; nguồn lực tổ chức.

Tiếp cận ngược lại với nguồn lực hữu hình, các nguồn lực không thể nhìn thấy được và khó để định lượng riêng lẻ từng nguồn lực này được gọi là nguồn lực vô hình (Grant, 1991). Đặc điểm của nguồn lực này là tính vô hình, không thể nhìn thấy và không có tính hiện hữu. Nguồn lực vô hình bao gồm các yếu tố như công nghệ, danh tiếng, nguồn lực trí tuệ, mạng lưới kinh doanh, kỹ năng tổ chức kinh doanh, mối quan hệ với các đối tác và cộng đồng… (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2009; Nguyễn Hoàng Long & Nguyễn Hoàng Việt, 2015).

Lý thuyết về nguồn lực cho rằng nguồn lực nội bộ doanh nghiệp là yếu tố quan trọng tạo lập và quyết định lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, dựa trên giả thuyết các doanh nghiệp trong cùng một ngành có chiến lược kinh doanh khác nhau


(Wernerfelt, 1984). Một nguồn lực được coi là có khả năng tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp nếu nó thỏa mãn 4 tiêu chí VRIN: (1)- nguồn lực có tính giá trị (valuable); (2)- nguồn lực có tính hiếm (rare); (3)- nguồn lực khó bắt chước (inimitable); và (4)- nguồn lực không thể thay thế (non-substitutable) (Barney, 1991). Như vậy, lý thuyết nguồn lực tập trung phát triển các yếu tố nội lực trong doanh nghiệp để tạo tiền đề cho phát triển lợi thế cạnh tranh. Lý thuyết nguồn lực cho phép doanh nghiệp nhận dạng và phát triển các nguồn lực đặc biệt để làm tiền đề cho việc

hoạch định và triển khai hiệu quả các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

2.1.2 Lý thuyết về năng lực động

Năng lực được hiểu là “khả năng của DN trong việc triển khai các nguồn lực thông qua việc phối kết hợp, sử dụng các quy trình của tổ chức để đạt được kết quả mong muốn” (Amit & Schoemaker, 1993 trích dẫn trong Eisenhardt & Martin, 2000). Theo Nguyễn Hoàng Long & Nguyễn Hoàng Việt (2015) thì năng lực là “khả năng liên kết các nguồn lực để cùng phục vụ cho một mục đích chung”. Các nguồn lực hữu hình và vô hình được coi là yếu tố then chốt tạo lập năng lực cho DN. Sự liên kết một cách có mục đích giữa các nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình tạo nên các năng lực cho DN. Năng lực được hình thành trên cơ sở thu nhận, phát triển và phối kết hợp các thông tin, dữ liệu và những tri thức chung của tập thể người lao động trong DN.

Tính “động” (dynamic) đã được Teece & Pisano (1994) lần đầu nhắc đến để nói đến đặc điểm thay đổi của môi trường. Phát triển từ quan điểm đó, Teece & cộng sự (1997) định nghĩa thuật ngữ “động” là “khả năng làm mới các năng lực để đạt được sự đồng dư với môi trường thay đổi”. Như vậy, tính “động” bao gồm những thay đổi và biến động xuất phát từ cả các yếu tố bên ngoài và các điều kiện nội bộ bên trong của DN. Sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài được xem là những thay đổi mang tính khách quan, mà thông qua đó các hoạt động trong nội bộ DN cần chủ động, linh hoạt và biến đổi nhằm thích ứng tốt nhất với các điều kiện “động” từ bên ngoài đó.

Lý thuyết về năng lực động được bắt nguồn từ quan điểm tiếp cận nguồn lực RBV của Barney (1991) và đặt trong điều kiện biến động của môi trường. Lý thuyết năng lực động kế thừa quan điểm phát triển nguồn lực để tạo lập lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên cơ sở nuôi dưỡng, phát triển các năng lực cốt lõi để thích nghi với các thay đổi từ bên ngoài (Teece & cộng sự, 1997). Nếu như lý thuyết RBV tập trung vào việc khai thác các năng lực đặc biệt để tạo lập lợi thế cạnh tranh thì lý thuyết năng lực động đã phát triển và mở rộng các năng lực đặc biệt này để đảm bảo khả năng phúc đáp nhanh chóng với những yếu tố khách quan từ bên ngoài (Eisenhardt & Martin, 2000; Lee& cộng sự, 2002). Các nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm và các cách tiếp cận khác nhau về năng lực động. Theo đó, có các cách tiếp cận


coi năng lực động là một dạng năng lực hay khả năng của DN; một nhóm tiếp cận khác lại coi năng lực động là một dạng của các hành vi và hành động của DN (Banjongprasert, 2013). Tổng hợp lại, khái niệm về năng lực động thời gian qua đã chỉ ra khá nhiều cách tiếp cận khác nhau như năng lực động là: hoạt động, khả năng, nguồn lực, quy trình, năng lực và nguồn của lợi thế cạnh tranh trong DN. Các định nghĩa, khái niệm về năng lực động của các tác giả được hệ thống hóa trong bảng 2.1:

Bảng 2.1: Tổng hợp các khái niệm về năng lực động

Tác giả

Khái niệm về Năng lực động

Collis (1994)

“Năng lực động là khả năng để phát triển các năng lực đổi mới,

cải tiến nhanh hơn (hoặc tốt hơn)”

Helfat (1997)

“Năng lực động là tập hợp các năng lực/ khả năng cho phép DN

sáng tạo các sản phẩm mới và các quy trình mới, và phúc đáp lại với những điều kiện thay đổi của thị trường”

Teece & cộng sự (1997)

“Năng lực động là khả năng tích hợp, xây dựng và cấu hình lại

các năng lực bên trong và bên ngoài để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh”

Eisenhardt & Martin (2000)

“Năng lực động được hiểu là quá trình mà DN sử dụng, tích hợp và tái định dạng, thu nhận và giải phóng các năng lực để thích ứng

với những thay đổi từ môi trường”

Griffith & Harvey (2001)

“Năng lực động là khả năng DN tạo ra những khó khăn cho các đối thủ trong việc bắt chước sự kết hợp các nguồn lực, bao gồm sự phối hợp hiệu quả các mối quan hệ giữa các tổ chức trên cơ sở toàn

cầu và tạo lợi thế cạnh tranh cho DN”

Lee & cộng sự

(2002)

“Năng lực động là được hiểu là một nguồn lực mới của lợi thế

cạnh tranh cho phép DN đối phó với những thay đổi từ môi trường”

Zollo & Winter (2002)

“Năng lực động được hiểu như là một mô hình học tập và ổn định của các hoạt động tập thể trong DN mà thông qua đó, DN có thê tập hợp và thay đổi một cách có hệ thống các hoạt động vận hành thường

nhật nhằm cải thiện hiệu quả như DN mong muốn”

Winter (2003)

“Năng lực động là sự mở rộng, thay đổi và sáng tạo các năng lực

thông thường của DN”

Zahra và cộng sự (2006)

“Năng lực động là khả năng để tái định dạng các nguồn lực và

thói quen của DN theo cách thức phù hợp và được thực hiện bởi những người ra quyết định chính trong DN”

Wang & Ahmed (2007)

“Năng lực động là một cách thức định hướng hành vi của DN để từ đó, DN có thể tích hợp, tái định dạng, làm mới, tái sáng tạo liên tục các nguồn lực và năng lực của DN; trong đó tập trung vào việc nâng cấp và tái cấu trúc các năng lực cốt lõi để đáp ứng với tính

động và sự thay đổi của môi trường, từ đó giúp DN tạo dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh”

Helfat & cộng

“Năng lực động là năng lực của DN để sáng tạo, mở rộng và thay

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 235 trang tài liệu này.

Nghiên cứu năng lực động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam - 5


sự (2007)

đổi các nền tảng nguồn lực DN một cách có mục đích”

Barreto (2010)

“Năng lực động là tiềm năng và khả năng của DN để giải quyết vấn đề một cách có hệ thống, được hình thành bởi xu hướng nhận diện cơ hội và rủi ro, ra quyết định đúng thời điểm theo định hướng

thị trường và thay đổi cơ sở nguồn lực của nó”

Banjongprasert (2013)

“Năng lực động là các khả năng để nhận dạng, đánh giá và phúc đáp với những thị trường thay đổi; để tích hợp các tri thức/thông tin mới và hiện tại; để tái định dạng (làm mới hoặc tái sáng tạo) các nguồn lực; và để quản trị các mối quan hệ phụ thuộc giữa các hoạt

động bao gồm tích hợp các nguồn lực đầu vào cũng như đạt được sự đồng dư với môi trường thay đổi”

Menon & Yao (2017)

“Năng lực động là khả năng của DN để sử dụng một cách có mục

đích các nguồn lực nhằm đạt được sự cộng tác với môi trường kinh doanh thay đổi một cách hiệu quả”

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phần phân tích chi tiết từng khái niệm trong Bảng 2.1 được trình bày cụ thể trong Phụ lục 3. Từ các khái niệm về năng lực động được phát biểu có thể thấy:

Năng lực động được xem như là một dạng năng lực đặc biệt cho phép doanh nghiệp thay đổi và làm mới các năng lực hiện tại của doanh nghiệp (Teece & cộng sự, 1997; Helfat, 1997: Helfat & cộng sự, 2007). Năng lực động cũng được xem như là phương tiện để doanh nghiệp thay đổi, cải tiến và làm mới chính các quy trình và hoạt động vận hành thông thường của DN (Eisenhardt & Martin, 2000; Zahra & cộng sự, 2006). Năng lực động còn được xem là dạng năng lực có thứ bậc cao hơn năng lực thông thường (Winter, 2003). Việc tạo ra năng lực động được thực hiện trên cơ sở nuôi dưỡng, phát triển và nâng cao các năng lực thông thường (Winter, 2003); các quy trình và hoạt động vận hành thông thường (Eisenhardt & Martin, 2000; Zahra & cộng sự, 2006). Mặc dù các quan điểm tiếp cận về nguồn gốc của năng lực động là khác nhau nhưng nhìn chung các tác giả đều thừa nhận rằng năng lực động là một dạng năng lực đặc biệt so với các năng lực thông thường khác trong DN.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra các quan điểm và cách thức tiếp cận khác nhau về năng lực động. Các quan điểm của Teece & cộng sự (1997); Eisenhardt & Martin (2000); Lee & cộng sự (2002); Barreto (2010); Banjongpraset (2013); Menon & Yao (2017) được tiếp cận theo hướng ngoại suy, cho rằng năng lực động của doanh nghiệp được tạo ra khi DN hoạt động trong những thị trường biến động mạnh và thường xuyên thay đổi. Việc sáng tạo và nuôi dưỡng năng lực động cho phép DN phúc đáp kịp thời và hiệu quả với các biến động từ bên ngoài này (Teece, 1997; Barreto, 2010). Trong khi đó, quan điểm tiếp cận nội suy được Collis (1994); Helfat (1997); Zollo & Winter (2002); Winter (2003); Griffith & cộng sự (2001); Zahra & cộng sự (2006); Helfat & cộng sự (2007); Wang & Ahmed (2007) thừa nhận và chỉ ra việc phát triển

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2024