Cơ Sở Lý Luận Và Giả Thuyết Nghiên Cứu Về Năng Lực Động Của Doanh Nghiệp Bán Lẻ.


- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Để có được bức tranh tổng thể về năng lực động thông qua các thành tố và kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN, luận án thực hiện thu thập dữ liệu thứ cấp là các báo cáo ngành bán lẻ của Hiệp hội bán lẻ Việt Nam cũng như các bài báo, công trình nghiên cứu có liên quan đến bán lẻ và các DNBLVN trong khoảng thời gian từ 2010 đến nay. Bên cạnh đó, các bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBL nội địa từ 2017 đến nay cũng được tác giả thu thập và lựa chọn để phục vụ cho nghiên cứu và viết thực trạng.

- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cũng như trả lời được câu hỏi nghiên cứu, luận án sử dụng đồng thời cả phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Với phương pháp nghiên cứu định tính, luận án thực hiện phỏng vấn chuyên gia để tiền thẩm định bảng hỏi (pre-test) phục vụ cho nghiên cứu định lượng và phỏng vấn chuyên sâu để đánh giá thực trạng năng lực động của các DNBLVN. Với phương pháp nghiên cứu định lượng - là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong luận án - tác giả thực hiện việc xây dựng các khái niệm nghiên cứu, xác định các thang đo nghiên cứu thông qua kế thừa một phần, kế thừa có chỉnh sửa/bổ sung và kế thừa toàn bộ thang đo từ các tiền nghiên cứu có liên quan đến chủ đề của luận án. Tiếp đến, tác giả tiến hành kiểm định mô hình nghiên cứu bằng việc đánh giá mô hình đo lường và mô hình cấu trúc thông qua phương pháp cấu trúc tuyến tính bình phương nhỏ nhất (PLS-SEM). Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng sẽ được mô tả chi tiết trong chương 3.

6. Những đóng góp mới của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án đã mang lại những đóng góp mới sau:

Về mặt lý luận:

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về năng lực động của DN nói chung và vận dụng cho DNBL nói riêng. Từ việc tổng quan các nghiên cứu có liên quan và kế thừa các lý thuyết nền tảng, luận án đưa ra khái niệm và đặc điểm của năng lực động gắn với DNBL dựa trên việc kết hợp cả quan điểm ngoại suy và nội suy.

Thứ hai, luận án đã nhận dạng các thành tố năng lực động của DNBL. Trên cơ sở kế thừa và phát triển, luận án đã đưa ra nhưng luận cứ để chỉ ra các thành tố năng lực động trên hai khía cạnh: năng lực động tổng quát và năng lực động cụ thể. Trong đó, các năng lực động tổng quát đóng vai trò là các năng lực tiền đề, thúc đẩy các năng lực tác nghiệp của doanh nghiệp thay đổi và cải tiến để thích nghi với điều kiện biến động của môi trường và biến các năng lực tác nghiệp thành những thành tố năng lực động cụ thể. Với đặc thù của DNBL, các thành tố năng lực động tổng quát được


chỉ ra trong luận án gồm năng lực hấp thụ và năng lực đổi mới sáng tạo; các thành tố năng lực động cụ thể gồm năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu và năng lực tích hợp đa kênh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 235 trang tài liệu này.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án có đóng góp cho lý thuyết về quản trị chiến lược. Bằng các luận cứ khoa học, luận án đưa ra các luận điểm để xác lập mô hình nghiên cứu nhằm làm rõ cơ chế hoạt động của năng lực động; cụ thể: (1)- Cơ chế tác động và mối quan hệ của các thành tố năng lực động tổng quát tới các thành tố năng lực động cụ thể; (2)- Cơ chế ảnh hưởng của năng lực động tới kết quả hoạt động kinh doanh thông qua xem xét đồng thời trên khía cạnh tác động trực tiếp và gián tiếp.

Về mặt thực tiễn

Nghiên cứu năng lực động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam - 3

Luận án đã tiến hành kiểm định mô hình nghiên cứu lý thuyết qua bộ dữ liệu sơ cấp được thu thập qua điều tra và xác lập mô hình nghiên cứu thực tế về năng lực động của các DNBL phù hợp với môi trường và thị trường bán lẻ Việt Nam. Những phát hiện và đóng góp mới của luận án về mặt thực tiễn gồm:

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu đã làm rõ cơ chế tác động tích cực và mạnh mẽ của các năng lực động tổng quát (năng lực hấp thụ và năng lực đổi mới sáng tạo) tới năng lực động cụ thể (năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu và năng lực tích hợp đa kênh) của DNBL. Phát hiện nghiên cứu đã làm rõ vai trò tiền đề của các các năng lực động tổng quát trong việc thúc đẩy các năng lực động cụ thể của DNBL phát triển; đồng thời làm rõ cơ chế biến đổi của các năng lực tác nghiệp trong DN thành các năng lực động cụ thể thông qua sự tác động của các năng lực động tổng quát.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ mối quan hệ tích cực và đáng kể của năng lực động tới kết quả hoạt động kinh doanh của DNBL thông qua đồng thời các tác động trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, các thành tố năng lực động cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBL. Các năng lực động tổng quát với vai trò và vị trí tiền đề đã cho thấy sự ảnh hưởng tích cực và gián tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của DNBLVN thông qua thành tố trung gian là các năng lực động cụ thể. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm tin cậy về sự cần thiết của việc nuôi dưỡng các năng lực tác nghiệp để biến chúng trở thành các năng lực động, giúp DN thích ứng tốt với các điều kiện biến động từ môi trường.

Thứ ba, bằng việc sử dụng đồng thời dữ liệu thứ cấp và sơ cấp từ phân tích định tính và định lượng, kết quả phân tích đã chỉ ra bức tranh tương đối toàn cảnh về thực trạng năng lực động của các DNBLVN. Thông qua đó, luận án chỉ ra mức độ quan trọng của việc nuôi dưỡng và phát triển các thành tố năng lực động trong cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN.


Về mục tiêu nghiên cứu:

Từ các phát hiện và kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra các quan điểm, định hướng và các giải pháp nhằm nâng cao năng lực động để cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Các giải pháp đề xuất được sắp xếp theo mức độ quan trọng của từng thành tố năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, luận án đưa ra một số khuyến nghị với các cơ quan quản lý vĩ mô nhằm hỗ trợ các DNBL nội địa phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và nâng cao năng lực động nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận án được kết cấu thành 5 chương gồm:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan.

Chương 2: Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu về năng lực động của doanh nghiệp bán lẻ.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu về năng lực động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.

Chương 5: Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao năng lực động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

1.1 Tổng quan các nghiên cứu lý thuyết

Thuật ngữ năng lực động (Dynamic Capability) lần đầu được Teece & Pisano (1994) nhắc đến trong một bài báo khoa học về năng lực động. Các nghiên cứu mang tính nền tảng để xây dựng khung lý thuyết về năng lực động và mối quan hệ của năng lực động đến quản trị chiến lược có thể kể đến như nghiên cứu của Teece & Pisano (1994); Helfat (1997); Teece & cộng sự (1997); Eisenhardt & Martin (2000); Zollo & Winter (2002); Winter (2003); Zahra & cộng sự (2006); Helfat & cộng sự (2007); Teece (2009). Đây được coi là các nghiên cứu lý thuyết quan trọng, giúp làm sáng tỏ khái niệm, bản chất của năng lực động cũng như sự cần thiết phải nghiên cứu năng lực động trong điều kiện môi trường biến động hiện nay. Ngoài các nghiên cứu lý thuyết nền tảng này, thời gian qua còn có một số công trình nghiên cứu về lý thuyết năng lực động trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã tái khẳng định vai trò và tầm quan trọng của năng lực động với doanh nghiệp. Một số nghiên cứu điển hình từ giai đoạn 2010 đến nay có thể kể đến như:

Nghiên cứu của Barreto (2010) được thực hiện trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu về năng lực động, nhận dạng các điểm hạn chế và thách thức chủ


yếu từ các nghiên cứu, đề xuất việc cần khái niệm hóa năng lực động như là một cấu trúc tổng hợp đa chiều, và đưa ra những cho các nghiên cứu về năng lực động trong tương lai. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã chỉ ra vai trò và tầm quan trọng của các nghiên cứu năng lực động thông qua các công trình nghiên cứu về đề tài này. Dựa trên nghiên cứu định tính, tác giả đã chỉ ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu năng lực động đối với DN trong điều kiện môi trường thay đổi và biến động, đồng thời chỉ ra lĩnh vực nghiên cứu này không chỉ là chủ đề của quản trị kinh doanh mà còn là chủ đề cần được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực quản trị chức năng khác nhau. Cùng với các nghiên cứu lý thuyết trước đó, nghiên cứu của Barreto (2010) đã tái khẳng định sự cần thiết của nghiên cứu năng lực động trong điều kiện thị trường nhiều biến động và cạnh tranh hiện nay.

Cuốn sách của Jones & cộng sự (2013) gồm 12 chương tập trung phân tích về các nguồn lực bên trong DN mà tập trung nhiều vào việc tạo lập và phát triển các nguồn lực vô hình dựa trên sự học hỏi để cải biến thành các năng lực động trong DN. Cuốn sách đặc biệt tập trung phân tích trong bối cảnh của các DN khởi nghiệp. Chương 9 và chương 12 của cuốn sách tập trung phân tích năng lực động và cách thức tạo ra năng lực động dựa trên quá trình học hỏi của DN khởi nghiệp để từ đó tạo được thành công cho DN trong tương lai.

Nghiên cứu của Williamson (2016) về việc xây dựng và tận dụng các năng lực động dựa trên việc ứng dụng đổi mới & sáng tạo được thực hiện dựa trên việc tổng hợp các lý thuyết về năng lực động và năng lực đổi mới & sáng tạo; gắn kết năng lực đổi mới & sáng tạo để xây dựng năng lực động và lợi thế cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua tình huống điển hình và phỏng vấn chuyên sâu 14 doanh nghiệp Trung Quốc trong hai giai đoạn – là những doanh nghiệp được cho là có tính đại diện tốt nhất cho các doanh nghiệp Trung Quốc có khả năng thúc đẩy và triển khai các hoạt động đổi mới & sáng tạo thành công. Bài viết cũng chỉ ra ba thành tố của năng lực động để nghiên cứu là: năng lực cảm nhận cơ hội, năng lực nắm bắt cơ hội và năng lực chuyển đổi. Kết quả của nghiên cứu cho thấy thông qua việc tối ưu hóa năng lực đổi mới & sáng tạo, cả ba thành tố của năng lực động đều được phát huy tối đa. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng năng lực động là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp tạo lập và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững. Đóng góp của nghiên cứu là đã chỉ ra mối quan hệ trực tiếp và tích cực của năng lực động đến lợi thế cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại phân tích ba nhóm thành tố của năng lực động được kế thừa từ Teece & cộng sự (2009). Các thành tố còn lại của năng lực động vẫn chưa được đề cập trong nghiên cứu này.


Nghiên cứu của Vijaya & cộng sự (2017) sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu tại bàn trên cơ sở thu thập và xử lý các dữ liệu thứ cấp để giải quyết vấn đề. Trên cơ sở tổng hợp và hệ thống từ 171 bài viết nghiên cứu về năng lực động trong giai đoạn 1999 – 2016, bài viết đã tổng hợp và đưa ra: (1)- các biến số đầu vào của năng lực động; (2)- các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực động và (3)- các kết quả đạt được từ việc sử dụng và phát triển năng lực động. Các biến số đầu vào của năng lực động bao gồm các nguồn lực của tổ chức (nguồn nhân lực; tài chính; cơ sở hạ tầng và công nghệ kỹ thuật; thông tin, tri thức và các hệ thống của tổ chức; và mạng lưới hoạt động & các mối quan hệ); các quy trình của tổ chức (công viêc – quy trình; hành vi – quy trình; sự thay đổi – quy trình). Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực động gồm các yếu tố nội bộ DN (văn hóa của tổ chức, lãnh đạo, các yếu tố cụ thể của DN và các hành động quản trị) và các yếu tố bên ngoài (đối thủ cạnh tranh; nhà cung ứng; khách hàng; các đặc điểm của thị trường; các yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội, luật pháp). Các kết quả đạt được từ việc sử dụng và phát triển năng lực động gồm các kết quả trong ngắn hạn (tạo lập lợi thế cạnh tranh ngắn hạn, tạo ra hiệu suất và lợi nhuận cho DN, sáng tạo giá trị cho khách hàng và các kết quả trong dài hạn (tạo ra lợi thế cạnh tranh dài hạn, thị phần và duy trì giá trị trong DN). Đóng góp của nghiên cứu là đã hệ thống được các yếu tố tác động, cấu thành và các kết quả từ năng lực động. Hạn chế của nghiên cứu là chưa đưa ra các kiểm định cụ thể về các thành tố, yếu tố tác động và các kết quả đạt được từ năng lực động ở DN/nhóm DN/ngành hàng cụ thể.

Nghiên cứu của Zeng & cộng sự (2017) đã chỉ ra vai trò của năng lực động không chỉ đơn thuần là việc làm mới một nhóm các năng lực cụ thể mà là một siêu năng lực giúp doanh nghiệp làm mới và tích hợp tất cả các năng lực của mình một cách liên tục. Nghiên cứu cũng đã bổ sung thêm vào lý thuyết về năng lực động bằng việc nhận dạng các năng lực mang lại hiệu suất tối ưu cho doanh nghiệp. Dựa trên phương pháp nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn chuyên sâu 36 chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất ngành hàng may mặc và điện tử của Trung Quốc, nghiên cứu đã thiết lập được mô hình quy trình phát triển năng lực gồm ba giai đoạn: (1)- Giai đoạn thiết lập các trọng tâm chú ý mới gồm: từ bỏ thói quen học hỏi từ các kinh nghiệm và các bài học có trước; chú trọng đầu tư vào các cơ sở nguồn lực mới; xây dựng văn hóa học tập trong toàn bộ doanh nghiệp. (2)- Giai đoạn tập trung vào quá trình chuyển đổi nguồn lực gồm: tiến hành thử nghiệm; tiến hành phân bổ các tài nguyên, nguồn lực hiện có; xây dựng các mạng lưới kết nối mở rộng với các bên liên quan. (3)- Đồng sáng tạo với hệ sinh thái gồm: thể chế hóa việc linh hoạt các thói quen; làm giàu hơn nữa các nguồn lực của doanh nghiệp; phối kết hợp các mạng lưới kết nối mở rộng với các bên liên quan. Giai đoạn (1) được chuyển sang giai đoạn (2) thông qua năng lực


lãnh đạo gồm: khả năng hoạch định lực lượng lao động chiến lược của doanh nghiệp; khả năng xây dựng hệ thống điều hành liên ngành. Giai đoạn (2) được chuyển sang giai đoạn (3) thông qua các năng lực nền tảng gồm: khả năng xây dựng cơ sở hạ tần nền tảng số cho doanh nghiệp; khả năng thúc đẩy các thành viên tham gia vào nền tảng số của doanh nghiệp. Đóng góp của nghiên cứu là ngoài việc xây dựng được mô hình quy trình phát triển năng lực của doanh nghiệp còn tập trung vào năng lực động tại cac quốc gia mới nổi và đang phát triển. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là mới chỉ tập trung vào nhóm các doanh nghiệp sản xuất với các đặc điểm khác biệt rõ ràng với các doanh nghiệp thương mại nói chung mà cụ thể là các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.

Ở Việt Nam trong thời gian qua đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh (NLCT) nói chung. Có thể kể đến như các nghiên cứu của Nguyễn Bách Khoa (2004), Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Trần Sửu (2006) … Các nghiên cứu trên nhìn chung đã có đóng góp nhất định cho việc xây dựng phương pháp đánh giá NLCT cho các DN trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng “mở”.

Đối với các nghiên cứu cụ thể về năng lực động thì có thể thấy số lượng các nghiên cứu không nhiều. Các nghiên cứu về chủ đề năng lực động thực sự được chú ý ở Việt Nam từ 2009 đến nay. Có thể kể đến một vài nghiên cứu tiêu biểu sau:

Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Việt (2012) đã làm rõ khái niệm năng lực kinh doanh. Dựa trên việc tổng hợp các cách tiếp cận khác nhau về năng lực động, tác giả bài báo đã phân năng lực kinh doanh thành bốn loại: năng lực tài sản, năng lực nguồn lực kinh doanh, năng lực kinh doanh hiển thị và năng lực kinh doanh động. Nghiên cứu đã xây dựng được cấu trúc bậc năng lực kinh doanh. Theo đó, năng lực kinh doanh gồm năm bậc xếp theo thứ tự từ bậc thấp nhất đến bậc cao nhất là: năng lực nguồn năng lực hiển thị năng lực động tài sản chiến lược kinh doanh lợi thế cạnh tranh bền vững. Trong bài viết này, tác giả đã phân loại 5 nhóm thành tố và trọng số đánh giá năng lực kinh doanh động của DN gồm: (1)-năng lực xây dựng và phát triển các cổ đông kinh doanh (trọng số Pi=0.15); (2)- năng lực tái thiết các quá trình kinh doanh cốt lõi (Pi=0.2); (3)-năng lực tái tạo và phát triển các năng lực kinh doanh cốt lõi và khác biệt (Pi=0.25); (4)- năng lực tổ chức và văn hóa tổ chức DN (Pi=0.2); (5)-năng lực lãnh đạo kinh doanh dựa trên tri thức và giá trị của các CEO (Pi=0.2). Đóng góp của nghiên cứu là đã xây dựng được bộ tiêu chí và các thang đo đánh giá năng lực kinh doanh nói chung của DN và năng lực kinh doanh động nói riêng. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là mới chỉ tập trung xây dựng hệ thống lý thuyết mà chưa xây dựng được mô hình và kiểm định thực tế tại các nhóm DN cụ thể. Nghiên cứu của Nguyễn Trần Sỹ (2013) tập trung tổng hợp các lý thuyết và


nghiên cứu trước đó về năng lực động bao gồm các trường phái, khái niệm và tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu năng lực động trong thời gian từ 1995 đến nay. Theo đó, tác giả bài viết đã tổng hợp thành sáu nhóm yếu tố cơ bản của năng lực động gồm: năng lực sáng tạo, năng lực thích ứng, năng lực hấp thụ (năng lực tiếp thu), năng lực kết nối, năng lực nhận thức và năng lực tích hợp. Dựa trên các nghiên cứu chung về năng lực động, bài viết cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực động tại các DNNVV Việt Nam, trong bối cảnh các nghiên cứu về năng lực động tại SMEs còn chưa được quan tâm nhiều. Đóng góp của bài báo là đã tổng hợp được một số thành phần cơ bản của năng lực động từ các công trình nghiên cứu trước đó và đã phần nào gắn kết cũng như nêu được tầm quan trọng của năng lực động với SMEs. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là tác giả chưa đưa ra được mô hình nghiên cứu cụ thể cho đối tượng và khách thể nghiên cứu. Thêm nữa, bài viết mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu mang tính lý thuyết, dựa trên tổng hợp lý thuyết và nhận dạng các thành tố năng lực động mà chưa đưa ra mô hình, giả thuyết nghiên cứu để từ đó tiến hành các nghiên cứu kiểm định với các DNNVV ở Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy bức tranh tổng thể về năng lực động, vai trò, tầm quan trọng của năng lực động đối với DN. Dù các tiếp cận về quan điểm năng lực động là khác nhau nhưng nhìn chung các nghiên cứu đều khẳng định vai trò và tầm quan trọng của nghiên cứu năng lực động, đặc biệt là trong điều kiện thị trường biến động và bất ổn.

1.2 Tổng quan các nghiên cứu thực chứng

Ngoài các nghiên cứu lý thuyết, trong những năm trở lại đây, các nghiên cứu về năng lực động trên thế giới có xu hướng tập trung vào các nghiên cứu thực chứng tại một bối cảnh thị trường cụ thể hoặc tại một nhóm các DN cụ thể. Các nghiên cứu ngoài việc kiểm định các thành tố năng lực động đã được các tác giả trước đó đưa ra còn đề xuất thêm các thành tố năng lực động khác; đồng thời cũng tiến hành xem xét mối quan hệ của năng lực động với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2.1 Tổng quan các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Tổng hợp các nghiên cứu cho thấy mức độ ảnh hưởng của năng lực động tới kết quả kinh doanh trong các công trình nghiên cứu có sự khác nhau rõ rệt. Theo đó, có hai nhóm quan điểm về mức độ ảnh hưởng giữa hai biến số này như sau: (1)- nhóm quan điểm cho rằng năng lực động có ảnh hưởng gián tiếp đến kết quả kinh doanh của DN và (2)- nhóm quan điểm cho rằng năng lực động có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của DN.


1.2.1.1 Năng lực động có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanhcủa doanh nghiệp

Tổng quan các nghiên cứu khẳng định mối quan hệ trực tiếp của năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của DN có thể kể đến như một số nghiên cứu của Wang & Ahmed (2007); Fang & Zou (2009); Chien & Tsai (2012); Banjongprasert (2013); Tseng & Lee (2014); Bùi Quang Tuyến (2017). Theo đó, Wang & Ahmed (2007) đã giải thích rằng năng lực động năng lực động cho phép DN gia tăng hiệu suất và cải thiện kết quả kinh doanh, cụ thể là khi DN đó có định hướng chiến lược tốt và có năng lực phát triển đồng bộ thì năng lực động giúp DN đạt được hiệu suất vượt trội.

Đồng quan điểm đó, nghiên cứu của Fang & Zou (2009) đã kiểm định mối quan hệ của năng lực động gắn với yếu tố marketing (Marketing dynamic capability) với kết quả hoạt động kinh doanh và lợi thế cạnh tranh của DN. Trong nghiên cứu này, năng lực động được gắn với một hoạt động chức năng cụ thể là marketing và được xác định là loại biến phản ánh (reflective construct), được phản ánh bởi ba yếu tố: quản trị quan hệ khách hàng, quản trị phát triển sản phẩm và quản trị chuỗi cung ứng. Dựa trên kết quả khảo sát của 114 nhà quản trị cấp cao của các công ty liên doanh trong lĩnh vực sản xuất tại Trung Quốc, nghiên cứu sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM để kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu (mô hình nghiên cứu được trình bày trong Phụ lục 1). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra việc có tồn tại mối quan hệ tích cực, đáng kể và thuận chiều của năng lực động tới kết quả hoạt động kinh doanh mà cụ thể là năng lực marketing động tới kết quả hoạt động kinh doanh. Nói cách khác, nghiên cứu của Fang & Zou (2009) đã củng cố cho quan điểm năng lực động có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của các DN.

Chien & Tsai (2012) đã xây dựng mô hình nghiên cứu gồm bốn giả thuyết (mô hình nghiên cứu được trình bày trong Phụ lục 1). Đáng chú ý là giả thuyết H1 được đưa ra về mối quan hệ tích cực của năng lực động đến kết quả kinh doanh của DN. Dựa trên kết quả khảo sát của 132 nhà quản lý cửa hàng của các chuỗi nhà hàng ăn nhanh tại Đài Loan, tác giả sử dụng mô hình cấu trúc SEM với kỹ thuật phân tích AMOS để kiểm định giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa năng lực động với kết quả hoạt động kinh doanh của DN (giả thuyết H1) đã được khẳng định với mức độ tác động là lớn nhất (hệ số Beta đạt 0.72). Điều này cho thấy sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ, đáng kể và thuận chiều của năng lực động đến kết quả kinh doanh của các DN.

Nghiên cứu của Banjongprasert (2013) đã chỉ ra bốn thành tố của năng lực động và gọi chúng là mô hình 4A: năng lực thích ứng cấp độ cá nhân; năng lực hấp thụ cấp

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2024