+ Đối với cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu nền văn hoá, phong cách của những người ngoài địa phương mình, vừa là cơ hội để tìm việc làm, phát huy các nghề cổ truyền, tăng thu nhập nhưng đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến đời sống người dân sở tại như về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn, chốn ở,...
Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành từ lâu và phát triển với tốc độ rất nhanh, nhưng khái niệm “Du lịch” lại được tiếp cận từ nhiều cấp độ khác nhau và được hiểu rất khác nhau, cụ thể:
Tổ chức Du lịch Thế giới UNWTO (1980)[132], đưa ra khái niệm: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư”.
Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới WTTC (2001)[133], đã đưa ra khái niệm: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích kinh doanh và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư”.
Hunziker và Krapf (2004)[82], hai người được coi là đặt nền móng cho cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra khái niệm: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kiếm lời”.
Luật Du lịch Việt Nam (2005)[25], đã đưa ra khái niệm: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy, các khái niệm du lịch của Tổ chức Du lịch Thế giới UNWTO (1980)[132], Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới WTTC (2001)[133] và Hunziker và Krapf (2004)[82] đều có điểm chung cho rằng Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ. Mặt khác du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan.... Tất cả những hoạt động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh du lịch.
Tuy nhiên, trong 4 khái trên thì khái niệm du lịch trong Luật Du lịch Việt Nam (2005)[25] sẽ chính thức được sử dụng trong nghiên cứu này vì đây là một khái niệm mang tính khái quát, bao hàm được cả hai khía cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích tham quan nghỉ dưỡng và các hoạt động kinh doanh liên quan phù hợp với đặc điểm văn hóa của người Việt Nam.
1.3.2. Năng lực cạnh tranh
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu mô hình năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong lĩnh vực du lịch - 1
- Nghiên cứu mô hình năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong lĩnh vực du lịch - 2
- Những Kết Quả Đạt Được Và Điểm Mới Của Luận Án
- Mối Quan Hệ Năng Lực Cạnh Tranh Toàn Cầu Với Địa Phương Trong Du Lịch
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Năng Lực Cạnh Tranh Cấp Tỉnh Trong Lĩnh Vực Du Lịch
- Mô Hình Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Điểm Đến Của Crouch (2007)
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quan điểm về cạnh tranh ở Việt Nam Đã có những thay đổi cơ bản từ cả khía cạnh kinh tế, xã hội và pháp lý. Trong tiến trình đổi mới, pháp luật về cạnh tranh từng bước được xây dựng và hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của đời sống kinh tế - xã hội.
Luật Cạnh tranh (2005)[26], đã cụ thể hóa các quan điểm về cạnh tranh và đưa ra một số giải thích thuật ngữ cạnh tranh như sau: Cạnh tranh có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Từ góc độ kinh tế pháp lý, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua giữa các thành viên cùng một thị trường nhằm mục đích lôi kéo khách hàng, gia tăng thị phần của một thị trường hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Cạnh tranh với tính chất là động lực nội tại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế chỉ tồn tại trong điều kiện kinh tế thị trường. Cạnh tranh không những là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp, mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế xã hội.
Mặt khác Luật cạnh tranh (2005)[26], cũng đưa ra một số căn cứ để nhận dạng cạnh tranh như sau: Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào hoạt động kinh doanh, thị trường được chia thành hai hình thái: Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết; Căn cứ vào cơ cấu thành viên thị trường và mức độ tập trung trong một lĩnh vực kinh doanh, thị trường được phân chia thành các hình thái: Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo (mức độ cao nhất là độc quyền); Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh trên các hình thái, thị trường được phân chia thành: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Chu Văn Cấp (2003)[2], “ cạnh tranh cũng là động lực nâng cao hiệu quả của mỗi nền kinh tế, ngược lại ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển. Một cách chung nhất, cạnh tranh là quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế của nền kinh tế thị trường, cùng theo đuổi mục đích tối đa hóa lợi ích. Với người sản xuất, đó là lợi nhuận. Còn đối với người tiêu dùng, đó là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”.
Theo M.Porter (2008)[113], “cạnh tranh là tạo ra năng suất và năng suất là giá trị sản lượng do một đơn vị lao động hoặc vốn sinh ra, nó phụ thuộc vào chất lượng và đặc điểm của sản phẩm”. Có thể nói khả năng cạnh tranh và năng suất mới có thể đảm bảo sự thịnh vượng kinh tế lâu dài. Do đó, các nền kinh tế cần xây dựng và nuôi dưỡng môi trường kinh doanh kinh tế vi mô có tính cạnh tranh, cho phép các doanh nghiệp cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng thông qua việc giải phóng sức cạnh tranh trong nội bộ. Để có thể xây dựng và nuôi dưỡng môi trường kinh doanh kinh tế vi mô có tính cạnh tranh cần biết được một quốc gia/vùng lãnh thổ đang ở giai đoạn phát triển kinh tế nào với các ưu tiên chính sách khác nhau, cụ thể:
Giai đoạn đầu, nền kinh tế lấy điều kiện sẵn có làm động lực tạo ra giá trị nhờ khai thác tài nguyên và các điều kiện sẵn có do đó sẽ không đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững; giai đoạn trung gian, nền kinh tế sẽ dựa vào nguyên vật liệu đầu vào để tạo ra hàng hóa và dịch vụ có giá trị hơn; còn giai đoạn cuối cùng đó là tạo ra giá trị độc đáo cho nhiều khách hàng, giúp cho năng suất cao hơn thông qua tổng hợp các yếu tố.
Cách tiếp cận này xem xét các cụm ngành công nghiệp, có khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp có liên quan đến việc thực hiện của các doanh nghiệp khác và các yếu tố khác gắn liền với nhau trong chuỗi giá trị gia tăng, trong mối quan hệ khách hàng – khách hàng, hoặc trong một bối cảnh địa phương hoặc khu vực đã trở thành một công cụ quan trọng để phân tích năng lực cạnh tranh.
Như vậy, khái niệm cạnh tranh được hiểu là cạnh tranh kinh tế xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy các tổ chức không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, có một định nghĩa chung nhất về năng lực cạnh tranh là cách định nghĩa kết hợp cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và cấp độ quốc gia của OECD (2003)[106] là “khả năng của các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc tế”.
1.3.3. Năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch
Một số nghiên cứu đã giới thiệu và áp dụng các khái niệm về năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch (Ahmed và Krohn[35], 1990; Ritchie và Crouch, 1993[117]; Bordas, 1994[41]; Pearce, 1997[109]; Woodside và Carr, 1988[134]; Crouch và Ritchie, 1999[50]; Kozak và Rimmington, 1999[92]; Buhalis, 2000[45]; d' Harteserre, 2000[56]; Go và Govers, 2000[73]; Hassan, 2000[76]; Mihalic, 2000[97]; Thomas và Long, 2000[127]; Kozak, 2001[93]).
Feurer và Chaharbaghi (1994, Tr. 51)[69], năng lực cạnh tranh điểm đến cũng có thể định nghĩa là “khả năng tạo ra các lợi thế cạnh tranh của một tổ chức bằng cách đáp ứng sự mong đợi của khách hàng, doanh nghiệp, người dân trong khi liên tục loại bỏ các mối đe dọa và khai thác các cơ hội phát sinh trong môi trường cạnh tranh”. Theo đó năng lực cạnh tranh điểm đến đã được xem là “sản xuất nhiều hơn và tốt hơn hàng hóa và dịch vụ chất lượng được bán trên thị trường cho người tiêu dùng”.
Báo cáo năng lực cạnh tranh Thế giới WEF (1995, Tr.18)[131], năng lực cạnh tranh điểm đến định nghĩa là “khả năng của một quốc gia hoặc doanh nghiệp, tương ứng, tạo ra của cải nhiều hơn đối thủ cạnh tranh của mình trong thị trường thế giới”.
Hassan (2000)[76], năng lực cạnh tranh điểm đến là “ khả năng của một điểm đến tạo ra và tích hợp các sản phẩm giá trị gia tăng để duy trì nguồn lực của mình trong khi duy trì vị trí thị trường tương đối so với đối thủ cạnh tranh”.
Mihalic (2000)[97], cũng mô tả năng lực cạnh tranh điểm đến từ những quan điểm môi trường có thể được liên quan đến các thành phần du lịch tự nhiên và nhân tạo cũng như môi trường xã hội và văn hóa. Khả năng cạnh tranh môi trường điểm đến có thể được tăng cường bằng những nỗ lực quản lý thích hợp và tăng lên thông qua các hoạt động marketing.
Vì vậy, khái niệm của Feurer và Chaharbaghi (1994, Tr. 51)[69] bao trùm toàn bộ các khái niệm nêu trên đó là khả năng của một điểm đến tạo các lợi thế cạnh tranh của một tổ chức bằng cách đáp ứng sự mong đợi của khách hàng, doanh nghiệp, người dân trong khi liên tục loại bỏ các mối đe dọa và khai thác các cơ hội phát sinh trong môi trường cạnh tranh.
1.3.4. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo khái niệm của M.Porter (1990, 1998, 2008)[115 ;112 ;113], “cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là khả năng của các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động giá trị gia tăng trong một ngành công nghiệp cụ thể trong một quốc gia cụ thể để duy trì giá trị gia tăng trong thời gian dài”.
Theo đánh giá năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF (1995)[131], khái niệm “Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân đạt và duy trì mức tăng trưởng cao về kinh tế, thu nhập và việc làm”.
Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu GCR của Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF (2014)[130], phân tích năng lực cạnh tranh ở cấp độ quốc gia dựa vào quy mô nền kinh tế, nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn công nghệ, cơ sở hạ tầng, mức độ cạnh tranh và độ mở của nền kinh tế, quản lý của chính phủ và quản trị doanh nghiệp.
Ở cấp độ quốc gia, khái niệm “Năng lực cạnh tranh” (Competitiveness) có ý nghĩa là năng suất sản xuất quốc gia. Năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào năng suất sử dụng tài nguyên, nguồn lực con người và vốn của một quốc gia, bởi chính năng suất xác định mức sống bền vững thể hiện qua mức lương, tỉ suất lợi nhuận từ vốn bỏ ra, tỉ suất lợi nhuận thu được từ tài nguyên tự nhiên,vv... Năng lực cạnh tranh không phải là việc một quốc gia cạnh tranh trong lĩnh vực gì để thịnh vượng mà là quốc gia đó cạnh tranh hiệu quả như thế nào trong các lĩnh vực. Các quốc gia cạnh tranh trong việc tạo ra môi trường kinh doanh và đầu tư hiệu quả nhất, tức là mang lại năng suất cao nhất. Như vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia/tỉnh và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp/ngành có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
1.3.5. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam VCCI (2014)[23], năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam trong việc tạo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và thu hút vốn đầu tư FDI hướng tới mục tiêu cuối cùng là phát triển kinh tế và nâng cao mức sống người dân của tỉnh đó, có bốn đặc điểm:
Thứ nhất, chỉ số PCI khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng công tác điều hành bằng cách chuẩn hóa điểm số xung quanh các thực tiễn điều hành kinh tế tốt sẵn có tại Việt Nam mà không dựa trên các tiêu chuẩn điều hành kinh tế lý tưởng nhưng khó đạt được, do đó đối với từng chỉ tiêu, có thể xác định được một tỉnh “ngôi sao” hoặc tỉnh đứng đầu của chỉ tiêu đó,và về lý thuyết bất kỳ tỉnh nào cũng có thể đạt được điểm số PCI tuyệt đối là 100 điểm.
Thứ hai, bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban đầu (các nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong một tỉnh và gần như không thể thay đổi trong ngắn hạn như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô của thị trường và nguồn nhân lực), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI giúp xác định và hướng vào các thực tiễn điều hành kinh tế tốt có thể đạt được ở cấp tỉnh.
Thứ ba, bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết quả phát triển kinh tế, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn điều hành kinh tế tốt đối với thu hút đầu tư và tăng trưởng.
Nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa thực tiễn điều hành kinh tế tốt với đánh giá của doanh nghiệp và sự cải thiện phúc lợi của địa phương. Mối liên hệ cuối cùng này đặc biệt quan trọng vì nó cho thấy các chính sách và sáng kiến thân thiện với doanh nghiệp khuyến khích họ hoạt động theo hướng đem lại lợi ích cho cả chủ doanh nghiệp, người lao động và cộng đồng thông qua tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho cả nền kinh tế.
Thứ tư, các chỉ tiêu cấu thành chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI được thiết kế theo hướng dễ hành động, đây là những chỉ tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh đưa ra các mục tiêu phấn đấu và theo dõi được tiến bộ trong thực hiện. Các chỉ tiêu này cũng rất thực chất vì được doanh nghiệp nhìn nhận là các chính sách then chốt đối với sự thành công của công việc kinh doanh.
Như vậy, nghiên cứu này là nghiên cứu về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong lĩnh vực du lịch thuộc ngành dịch vụ trong nền kinh tế hỗn hợp Việt Nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà Nước được chia thành 3 ngành kinh tế chính đó là: Ngành công nghiệp; Ngành dịch vụ; Ngành nông nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau.
1.3.6. Năng lực cạnh tranh du lịch
Du lịch được công nhận là một trong những lĩnh vực then chốt của sự phát triển trong tất cả các nước và là một trong những nguồn thu nhập chính tạo ra công ăn việc làm và của cải. Nó cũng đóng một vai trò lớn trong việc thúc đẩy nhận thức tầm quan trọng về hình ảnh của một quốc gia, của một vùng, miền, khu vực và địa phương tạo ra những thách thức trong việc đo lường năng lực cạnh tranh trong du lịch.
Sự tác động của năng lực cạnh tranh có thể thay đổi một cách nhanh chóng và năng động tạo ra thách thức nhu cầu nghiên cứu xác định các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh trong du lịch theo xu hướng kinh tế du lịch toàn cầu, bao gồm cả việc thay đổi xu hướng thị trường, hành vi đi lại, vai trò của truyền thông xã hội, sự phát triển các nhu cầu mới, tất cả làm tăng khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và trên thị trường toàn cầu.
Có rất nhiều khái niệm năng lực cạnh tranh du lịch nói chung. Tuy nhiên vẫn còn không đồng đều về nội dung. Tuy nhiên có một khái niệm thống nhất chung về năng lực cạnh tranh trong du lịch của Diễn đàn Thương mại Dịch vụ, cơ hội và thách thức cho các nước đang phát triển OECD (2013)[106]
“Năng lực cạnh tranh ở các cấp độ trong du lịch là năng lực cạnh tranh của một điểm đến có khả năng tối ưu hóa sức hấp dẫn của nó đối với du khách, người dân địa phương và doanh nghiệp để cung cấp chất lượng, đổi mới và sự hấp dẫn dịch vụ du lịch cho người tiêu dùng để đạt được thị phần ở thị trường trong nước và trên toàn cầu, với điều kiện các nguồn lực sẵn có hỗ trợ du lịch được sử dụng có hiệu quả một cách bền vững”.
1.3.7. Năng lực cạnh tranh ngành
M. Porter (1980)[110], một ngành kinh tế được coi là có năng lực cạnh tranh khi các doanh nghiệp trong ngành và sản phẩm chủ đạo của ngành có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của một ngành kinh tế bao gồm: Lợi thế so sánh của ngành, môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh của ngành, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành và năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ đặc thù của ngành được mô tả trong mô hình năm thế lực cạnh tranh hay năm lực lượng cạnh tranh bao gồm năm yếu tố đó là: Chiến lược doanh nghiệp; Cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh; Các điều kiện cạnh tranh; Các điều kiện cầu; Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan.
Cùng với quá trình hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, việc mở cửa khu vực dịch vụ đã tạo ra một sức ép lớn đối với vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ Việt Nam. Có thể nói, năng lực cạnh tranh của hầu hết các lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam hiện nay đang ở mức thấp so với thế giới và thậm chí ngay cả so với các nước đang phát triển trong khu vực. Điều này mang đến cho những khó khăn cho khu vực dịch vụ Việt Nam trên cả thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước. Tuy nhiên, tiềm năng và cơ hội phát triển còn đang ở phía trước, vấn đề đặt ra là cần những nghiên cứu đưa ra các quyết định phù hợp để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ nói chung và năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch nói riêng.