lên các quan điểm và luận chứng các giải pháp, kiến nghị tăng cường GDPL cho CBCC ở tỉnh Phông Sa Lỳ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN ĐƯỢC TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ kết quả khảo cứu công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học ở trong nước và ngoài nước có liên quan đến chủ đề GDPL, có thể rút ra một số nhận xét, đánh giá có giá trị tham khảo cho đề tài luận án như sau:
Thứ nhất, trên phương diện lý luận, những cuốn giáo trình, sách chuyên khảo, bài báo khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về GDPL từ các góc độ luật học, giáo dục học, xã hội học... đã làm rõ nhiều luận điểm, luận cứ khoa học và thực tiễn về GDPL, vận dụng khá sáng tạo lý luận về GDPL để luận giải, nhận xét, đánh giá về GDPL trên từng lĩnh vực, địa bàn và gắn với các nhóm đối tượng xã hội cụ thể, cụ thể là:
- Những cuốn sách, đề tài, công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định đã đề cập đến việc xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam; đến các thành tố của GDPL, như mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL... Đồng thời, đã đề cập, nghiên cứu vai trò, đặc điểm GDPL cho một số đối tượng cụ thể.
- Các công trình nghiên cứu về ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL là những tài liệu hữu ích đối với đề tài luận án khi đánh giá ảnh hưởng của những phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ nghi, các giá trị văn hóa Khmer đối với hoạt động GDPL cho ĐBDT Khmer. Tuy nhiên, các công trình khoa học đó không đề cập đến vấn đề GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL.
- Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, kết quả của các cuộc Hội thảo quốc tế đã chỉ ra nhiều vấn đề quan trọng về lý luận GDPL nói chung, về GDPL cho những đối tượng cụ thể, trong đó có người DTTS nói riêng. Đó là những tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận về GDPL, về các thành tố của GDPL; tìm kiếm những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ của các nghiên cứu sinh, học viên nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào học tập tại Việt Nam cũng là nguồn tài liệu tham khảo giúp tác giả luận án đánh giá đặc thù của GDPL cho các đối tượng
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam - 1
- Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam - 2
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Giáo Dục Pháp Luật Cho
- Vai Trò Của Giáo Dục Pháp Luật Cho Đồng Bào Dân Tộc Khmer
- Chủ Thể, Đối Tượng Của Giáo Dục Pháp Luật Cho Đồng Bào Dân Tộc Khmer Ở Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Giáo Dục Pháp Luật Cho Đồng Bào Dân Tộc Khmer Ở Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
cụ thể, trong đó có đồng bào các DTTS ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - quốc gia gần gũi về mặt địa lý và có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp với đất nước Việt Nam chúng ta.
Như vậy, nhìn từ những công trình nghiên cứu về GDPL nói chung, GDPL cho các nhóm đối tượng xã hội nói riêng, có thể thấy, đó đều là những tài liệu tham khảo có giá trị về mặt lý luận cho đề tài luận án của tác giả. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL; để lại “khoảng trống” trên diễn đàn khoa học Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật mà tác giả mong muốn đi sâu nghiên cứu.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn, một số án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ ở mức độ khác nhau đã nghiên cứu, đánh giá thực trạng GDPL cho các đối tượng ở những địa bàn cụ thể, chỉ ra được những ưu điểm cũng như hạn chế, bất cập của công tác này, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, các nhân tố tác động đến GDPL. Từ đó, các tác giả đã nêu lên được những phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng xã hội. Mặc dù vậy, chưa có công trình nào khảo sát thực tiễn một cách toàn diện GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSL.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu
Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định được những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục triển khai, đi sâu nghiên cứu, làm rõ trong quá trình thực hiện đề tài luận án “Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam”, gồm:
- Về lý luận:
+ Phân tích khái niệm GDPL cho ĐBDT Khmer; làm rõ đặc trưng, vai trò của GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam;
+ Luận giải các thành tố của GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, gồm mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL phù hợp với đặc điểm của ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam;
+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng
ĐBSCL, bao gồm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan;
+ Tìm hiểu GDPL cho các cộng đồng DTTS tại một số nước trên thế giới; từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo đối với GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam.
- Về thực tiễn:
+ Đánh giá thực trạng GDPL cho ĐBDT Khmer vùng ĐBSCL, chỉ ra kết quả, hạn chế, phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó dựa trên kết quả điều tra XHH;
+ Rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn GDPL cho ĐBDT Khmer ở
vùng ĐBSCL, Việt Nam;
- Về quan điểm, giải pháp:
+ Đề xuất, phân tích các quan điểm bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp luật cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam;
+ Đề xuất, phân tích các giải pháp đồng bộ, toàn diện, khả thi nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL.
Tiểu kết chương 1
Sự tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy chủ đề GDPL là một nội dung quan trọng của Luật học, được nhiều tác giả, nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Trên bình diện nghiên cứu lý luận về GDPL, nhiều cuốn giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, các luận án tiến sĩ luật học đã tập trung nghiên cứu, phân tích khái niệm, vai trò của GDPL, các yếu tố cấu thành GDPL, như chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức GDPL... Trên bình diện nghiên cứu ứng dụng thực tiễn cũng đã có các công trình luận án, luận văn đi vào nghiên cứu công tác GDPL cho những đối tượng xã hội cụ thể, như CBCC nhà nước, đồng bào các DTTS... Một điều có thể khẳng định chắc chắn là chưa có công trình nào nghiên cứu về GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam từ phía các tác giả nước ngoài.
Sự tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy, vấn đề GDPL nói chung, GDPL cho từng nhóm đối tượng xã hội cụ thể và gắn với những địa bàn nhất định nói riêng đã được nhiều tác giả đề cập, phân tích tương đối đa dạng,
phong phú trên cả phương diện lý luận và thực tiễn; thể hiện trong các đề tài khoa học, sách chuyên khảo, tham khảo, bài báo đăng trên các tạp chí khoa học và cũng là đề tài của nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học. Cũng đã có một vài công trình luận văn thạc sĩ luật học đi vào nghiên cứu về vấn đề GDPL cho người Khmer ở Nam Bộ, song, được thực hiện từ thời điểm trước năm 1998 hoặc sự nghiên cứu mới chỉ khu biệt ở một địa phương cụ thể trong vùng chứ chưa mở rộng ra toàn vùng ĐBSCL, Việt Nam.
Tuy nhiên, từ thời điểm năm 1998 (năm đánh dấu sự quan tâm mạnh mẽ và sự chỉ đạo sâu sát của Nhà nước ta đối với công tác PBGDPL) đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào đi vào phân tích, đánh giá, luận giải một cách toàn diện, có hệ thống vấn đề GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL, Việt Nam. Vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và tìm kiếm các giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
2.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer
Giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể GDPL, tác động đến đối tượng tiếp nhận GDPL nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật [70, tr.54]. GGDPL là lĩnh vực hoạt động bao gồm tất cả các giai đoạn như định hướng GDPL, xây dựng chương trình, kế hoạch, xác định nội dung GDPL, phương pháp và hình thức GDPL; triển khai thực hiện chương trình GDPL; kiểm tra, đánh giá kết quả GDPL; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về GDPL...
Giáo dục pháp luật cho ĐBDT Khmer trong giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết, là một loại hoạt động có ý nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, hướng tới cung cấp, trang bị cho đồng bào những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; từ đó, làm hình thành ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật một cách chủ động, tích cực và đúng đắn; góp phần phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật nói chung, văn bản pháp quy của các cấp chính quyền nói riêng trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội của ĐBDT Khmer; đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Để có thể đưa ra khái niệm GDPL cho ĐBDT Khmer thì nhất thiết phải đề
cập đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất, GDPL là hoạt động thể hiện sự tương tác giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Theo nguyên tắc đó, GDPL cho ĐBDT Khmer cũng là hoạt động được thực hiện thông qua sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng. Chủ thể GDPL ở đây chính là các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể của các tỉnh ở ĐBSCL có chức năng, nhiệm vụ thực hiện GDPL, như Sở Tư pháp các tỉnh, Phòng Tư pháp các huyện, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam các tỉnh trong vùng và
các tổ chức thành viên... Đối tượng tiếp nhận GDPL ở đây chính là ĐBDT Khmer
đang sinh sống ở vùng ĐBSCL.
Thứ hai, GDPL cho ĐBDT Khmer là hoạt động có định hướng, có mục đích, bao hàm những tác động tự giác, tích cực, tuân theo kế hoạch đã được xác định của chủ thể GDPL lên đối tượng GDPL là ĐBDT Khmer tương ứng với các nội dung cụ thể. Tính có định hướng, có mục đích trong hoạt động của chủ thể GDPL mang tính khách quan, phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống về kiến thức, hiểu biết pháp luật của ĐBDT Khmer, được chủ thể GDPL truyền đạt, chuyển hóa nó thành nhu cầu tự thân của đối tượng là ĐBDT Khmer. Quá trình GDPL cho ĐBDT Khmer chỉ thực sự đạt được mục tiêu, hiệu quả đề ra khi đồng bào thực sự tự giác, tích cực biến những yêu cầu pháp luật khách quan thành nhu cầu nội tại của bản thân mỗi người dân trong cộng đồng dân tộc Khmer.
Thứ ba, quá trình GDPL cho ĐBDT Khmer luôn tuân theo nội dung, chương trình PBGDPL cụ thể, dựa trên các phương pháp GDPL khoa học, hiện đại và các hình thức GDPL phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa, lối sống của ĐBDT Khmer nhằm hiện thực hóa một cách tối ưu mục tiêu GDPL cho họ. GDPL cho ĐBDT Khmer mang những đặc điểm chung của quá trình GDPL cho các đối tượng xã hội khác, như cũng có kế hoạch, nội dung, phương pháp, hình thức GDPL; song, chúng phải được đặt trong sự phù hợp, tương thích với các yêu cầu về kiến thức, hiểu biết pháp luật và những đòi hỏi về giải quyết các vấn đề, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong cuộc sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày của ĐBDT Khmer;
Ngoài ra, hoạt động GDPL cho ĐBDT Khmer cũng phải phù hợp với các đặc điểm văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào. Điều đó đòi hỏi các chủ thể GDPL phải tìm ra được cách tiếp cận hoạt động GDPL phù hợp với ĐBDT Khmer trên tất cả các phương diện, từ nội dung, phương pháp cho đến hình thức GDPL cho họ.
Thứ tư, trong nội dung GDPL cho ĐBDT Khmer, ngoài việc cung cấp, trang bị những kiến thức, hiểu biết pháp luật cần thiết như cho mọi công dân nói chung, các chủ thể GDPL còn phải rất chú trọng trang bị cho ĐBDT Khmer những kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực pháp luật có liên quan mật thiết với cuộc sống, lao động của họ, các văn bản pháp quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành...
Ngoài ra, nội dung GDPL phải thật cụ thể, rõ ràng; phương pháp phải truyền đạt dễ hiểu, dễ nhớ; hình thức GDPL phải hấp dẫn, sinh động, phù hợp với truyền thống văn hóa, tôn giáo, tập quán lao động, sinh hoạt, học vấn của ĐBDT Khmer. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa GDPL cho ĐBDT Khmer so với GDPL cho các đối tượng xã hội khác.
Thứ năm, GDPL cho ĐBDT Khmer, suy cho cùng, phải đạt được mục tiêu, hiệu quả mà chủ thể GDPL đặt ra và cũng là những tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác này. Mục tiêu, hiệu quả của GDPL cho ĐBDT Khmer phải được đánh giá qua việc ĐBDT Khmer đạt được những mục tiêu cụ thể gì từ quá trình này. Mục tiêu của GDPL cho ĐBDT Khmer được nhìn nhận trên ba tiêu chí: mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về thái độ và mục tiêu về hành vi.
Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa: GDPL cho ĐBDT Khmer là hoạt động có định hướng, có tổ chức, do các chủ thể GDPL tiến hành theo chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức nhất định phù hợp với truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, tập quán sản xuất, sinh hoạt của đồng bào; làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành; góp phần xây dựng, củng cố ý thức về quyền con người, quyền công dân của ĐBDT Khmer để họ có thể tiếp cận, bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả.
2.1.2. Các đặc trưng của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Giáo dục pháp luật cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL là một bộ phận của GDPL nói chung, nghĩa là nó cũng phải tuân theo các quy luật chung của quá trình GDPL cho các đối tượng xã hội khác, phải đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL. Bên cạnh đó, GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL còn có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ các đặc điểm về trình độ dân trí, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống của ĐBDT Khmer; từ những đặc thù về địa bàn cư trú, cơ cấu các nhóm tuổi, vị thế xã hội của mỗi nhóm xã hội cụ thể trong cộng đồng dân tộc Khmer. Theo tinh thần đó, GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL là GDPL cho một cộng đồng xã hội có cơ cấu lứa tuổi khác nhau, bao gồm nhóm thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên. Nhóm người lớn (trung niên và cao niên) có nhiều đặc điểm về tâm lý, nhân cách, học vấn, hiểu biết xã hội, quan hệ xã hội, lối sống, kinh nghiệm thực tế, công việc... khác biệt so với nhóm thanh thiếu niên (học sinh phổ thông). Sự “chín chắn” ở nhóm người lớn nhiều khi lại gây bất lợi đối với hiệu quả GDPL cho chính nhóm lứa tuổi này. Nếu như nhóm học sinh phổ thông chỉ có mỗi nhiệm vụ chủ yếu là học, có khả năng tập trung cao, có thể tiếp thu kiến thức, hiểu bài nhanh và có trí nhớ tốt, dẫn đến kết quả học tập, tiếp thu kiến thức pháp luật cao hơn; thì nhóm đối tượng người lớn lại khó có thể tập trung vào việc tiếp nhận nội dung pháp luật khi tham dự GDPL do họ thường bị phân tâm bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh, như công chuyện gia đình, lao động sản xuất, quan hệ xã hội...; trí nhở đã bị giảm sút, sự chủ quan, bệnh lười biếng.v.v. Mặt khác, vì thói quen của đối tượng người lớn thường cho rằng mình đã biết nội dung GDPL rồi, nên thái độ của họ đối với GDPL là “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, trong khi thực tế không hẳn là họ đã biết đúng, biết đủ các quy định pháp luật liên quan đến cuộc sống, lao động hàng ngày. Với vị thế và tâm thế đó, họ tham dự các hoạt động GDPL một cách miễn cưỡng, đối phó, thường viện cớ bận công việc gia đình, làm ăn... để thoái thác tham dự GDPL. Kết quả là, chất lượng GDPL cho nhóm đối tượng người lớn trong ĐBDT Khmer có thể không được như mong muốn của các nhà GDPL. Các chủ thể GDPL cho ĐBDT Khmer cần phải thấu hiểu đặc trưng này trong quá trình GDPL cho nhóm đối tượng người lớn để có sự phân loại đối tượng phù hợp trước khi tiến hành GDPL cho họ.
Thứ hai, giáo dục pháp luật cho ĐBDT Khmer ở vùng ĐBSCL hướng tới cung cấp, trang bị cho đồng bào những thông tin, kiến thức về những lĩnh vực pháp luật thiết yếu, gần gũi và phù hợp với mục tiêu, nhu cầu giải quyết những vấn đề pháp lý nảy sinh trong cuộc sống của họ. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, luôn đặt pháp luật ở vị trí thượng tôn nên với tư cách là những công dân, ĐBDT Khmer rất cần đến thông tin, kiến thức pháp luật để có thể “sống, làm việc theo pháp luật”. Thông tin, kiến thức pháp luật cần cho ĐBDT Khmer không chỉ bao gồm các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, các loại văn bản QPPL khác do Nhà nước ban hành; các văn bản pháp quy của chính quyền địa