Mở Đầu Và Kết Thúc Tiểu Thuyết Đội Gạo Lên Chùa


sống nhà chùa nhưng cuối cùng lại trở về với thế tục. Vô Trần từ nhỏ một mực xin đi tu nhưng đến năm mười bảy, mười tám tuổi bị sức cuốn hút của cô Nấm đã bỏ chùa về với thế tục. Sau đó trở thành nhà sư cách mạng, có lúc bị nghi ngờ, bị truy đuổi, bị quy chụp là quốc dân đảng. Vô Trần cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc nhưng trớ trêu thay trong thời kỳ cải cách bị quy chụp Quốc dân đảng khiến vợ và con phải bỏ trốn, vợ bị bọn vạn đò hãm hiếp và chết mất xác trên sông. Qua những ngã rẽ trong cuộc đời, nhân vật Vô Trần đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Đó là con người thông minh, nhiệt tình, bản lĩnh, quyết đoán. Ở nhân vật An, người đọc cũng thấy có ba sự kiện lớn trong cuộc đời nhân vật này: cha mẹ bị giết trong một trận càn, hai chị em được sư Vô Uý che chở, An được xuống tóc đi tu; Thực hiện nghĩa vụ công dân An trở thành người lính; khi hoà bình trở thành chồng của Huệ. Nhà văn đã tạo lập những tình huống nhạy cảm để từ đó các nhân vật phải đưa ra những lựa chọn mang tính quyết định đến số phận, cuộc đời mình.

Quan tâm đến số phận nhân vật, nhà văn đi sâu vào những ngõ ngách riêng tư trong đời sống con người với tất cả sự phong phú và phức tạp vốn có của nó, với niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau, những mâu thuẫn những trăn trở, khát vọng, bi kịch…Trong Đội gạo lên chùa người đọc dễ nhận thấy nhà văn quan tâm đặc biệt đến những nhân vật có số phận bi kịch. Nhà văn đã chỉ ra tính căn nguyên của những số phận bi kịch hoặc những nhân vật mang trong mình ít nhiều bi kịch. Đó những con người với “đầy những vết dập xoá trên thân thể trong tâm hồn”. Chẳng hạn số phận của các nhân vật như: Bernard, bà Nấm, những người vợ lẽ của địa chủ….

Nhân vật Bernard chính là kết quả của sự phối kết giữa một người đàn bà bản địa - bà Thu với một người lính Pháp đi xâm lược. Bernard mất cha từ khi còn nhỏ và bà Thu đã nuôi dưỡng hắn lớn lên như bao đứa trẻ người Việt khác. Nhìn cách sinh hoạt của hắn thì ai cũng nhận thấy đây là một người Việt


thực thụ. Bi kịch của Bernard xuất hiện khi hắn ý thức về nguồn gốc, nòi giống của mình. Đó là bi kịch bị kẹt giữa hai dòng máu: da vàng của người mẹ và da trắng người cha Pháp. Mang trong mình hai dòng máu đã làm cho Bernard vừ có tâm lý kiêu hãnh của kẻ thượng đẳng vừa có tâm lý tự ti của kẻ có dòng máu tạp chủng: da vàng. Vì thế trong nhân vật này luôn có sự đấu tranh giữa hai nguồn gốc bản xứ “hạ đẳng” và mẫu quốc “thượng đẳng”. Mâu thuẫn của Bernard lên cao khi chính hắn muốn gột rửa dòng máu da vàng ra khỏi cơ thể mình. Tâm hồn hắn trở thành “bãi chiến trường cho cuộc chiến tranh chấp giữa dòng máu nội và dòng máu ngoại” [36, tr.70], luôn có sự đấu tranh giữa tính cách mạnh mẽ của kẻ đi chinh phục ưa bạo lực và tâm lý nhu thuận hiền hoà của một dân tộc phương Đông. Tâm lý đó kết hợp với ba nỗi hận: Cách mạng tháng Tám thành công, đã làm tan vỡ trong hắn niềm kiêu hãnh của kẻ đi chinh phục; bị người yêu - cô Mận phản bội; cái chết của người cậu và bà mẹ khiến Bernard nghiêng hẳn về phía người cha. Hắn cố chối bỏ tất cả những gì thuộc về xứ sở mà hắn đã sinh ra và lớn lên, cả dòng máu người mẹ mà hắn đang mang trong huyết quản. Bernard nói rất sõi tiếng Việt nhưng không bao giờ tự nói tiếng Việt mà dùng tiếng Pháp, khi giao tiếp với người bị bắt chỉ thông qua phiên dịch. Hắn “ít nói và kín đáo” - đức tính mà hắn rất kiêu hãnh nhưng không thừa nhận là được thừa hưởng từ người cậu, từ bên ngoại. Hay khi đứng trước Thailan - người mang dòng máu quý tộc, hắn luôn mặc cảm tự ti của kẻ “mang dòng máu tạp chủng”, vì thế hắn luôn ghen tị, đối đầu ngấm ngầm với viên đại uý này. Chính vì muốn “lột xác dứt khoát” nên Bernard càng ngày càng cực đoan “Hắn nghĩ chiến tranh là chiến tranh. Đó là máu và lửa. Phải độc địa như loài rắn. Phải thâm hiểm xảo quyệt như loài chó sói. Làm bất cứ điều gì, chỉ cốt cuối cùng chiến thắng. Bởi chỉ có con người chiến thắng mới là người có lý”[36, tr.399]. Chính những điều đó đã tạo nên một Bernard - kẻ giết người không từ bất cứ thủ đoạn nào,


hắn đã gây ra biết bao đau thương cho xứ sở mà ở đó mẹ hắn, anh em nhà ngoại và chính hắn đã được sinh ra và lớn lên. Cuối cùng Bernard đã phải nhận cái chết theo một cách đầy man rợ “Cuối cùng rắc một cái. Tây lùn thét vang trời rồi nhũn ra (…). Hai người cưa một cái đầu. Kẻ bị bó giò rú lên như một con chó dại sủa trăng”[36, tr.437].

Số phận nhân vật bà Nấm cũng là một bi kịch. Nấm goá chồng khi ở độ tuổi 18 xuân thì, phải trở về sống cùng bà dì là vợ thứ năm của cụ chánh ở cánh rừng cò. Khi bà dì qua đời, Nấm đã gặp nhà sư trẻ Vô Trần, hai người nên nghĩa vợ chồng. Nhưng vì mang tiếng “bỏ bùa cho sư” nên hai vợ chồng phải trốn khỏi làng lên đất Hà Nội sinh sống. Chồng bà, từ thời tiền cách mạng đã làm cán bộ, giữ vị trí cấp cao trong quân đội, con trai cũng xung phong nhập ngũ từ khi chưa đủ tuổi. Bản thân bà Nấm thời tề ngụy làm cán bộ phụ nữ trên huyện, đến thời kỳ hoà bình về làm chủ tịch xã. Bà cùng bà con lao động, xây dựng quê hương “suốt ngày xắn quần móng lợn đi làm việc. Cứu đói, chống hạn đều lăn xả vào”[36, tr.464]. Đối với người dân làng Sọ, bà Nấm được mọi người rất mực yêu quý. Thế nhưng bi thảm thay, khi chính quyền mới về, cả nhà bị quy chụp là Quốc dân đảng. Bà Nấm bị bắt, phải bỏ trốn khỏi làng và trên đường trốn chạy bị bọn vạn đò hãm hiếp để rồi sau đó phải chết trôi sông mất xác. Cơn bão chính trị đã làm cho những người như bà Nấm phải chịu cái chết đầy oan ức.

Ngoài ra, trong Đội gạo lên chùa các nhân vật là vợ lẽ địa chủ hầu hết đều mang trong mình những bi kịch. Có thể họ không có kết cục là cái chết nhưng bi kịch của họ là bi kịch của con người không có quyền quyết định cho chính số phận của mình, không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, đúng nghĩa. Họ trở thành thứ đồ mua vui, phục vụ những ham muốn thể xác của những kẻ như Chánh Long, Lý Phượng…Chẳng hạn như nhân vật bà Thêu vợ thứ sáu của Chánh Long. Năm ấy bà Thêu mới 18 tuổi, sắc đẹp hơn người nhưng rồi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.


bị ép gả cho chánhh Long. Mặc dù bà đã nhịn ăn, đã khóc sưng vù hai mắt nhưng không thay đổi được số phận. Trước quyền lực “như ông vua con ở làng Sọ”[36] của ông chánh và sự đồng thuận của những ngươi họ hàng, cô Thêu mười tám tuổi tuổi “ xuân sắc hơ hớ”[36] đã phải lấy ông lão sáu mươi đã có năm mặt vợ làm chồng. Ở đây cuộc hôn nhân là kết quả của sự chủ động của ông chánh, một cuộc hôn nhân không có tình yêu. Vì thế, đêm tân hôn cuộc ái ân của đôi vợ chồng diễn ra như một vụ “cưỡng hiếp”. Cuộc hành lạc đó không đem đến cho người phụ nữ này niềm hạnh phúc lứa đôi mà là sự cam chịu đầy tủi nhục. Phải sống trong cảnh “kiếp chồng chung‟‟đã là một nỗi bi kịch, tủi nhục của người phụ nữ. Hạnh phúc của người đàn bà bị chia năm sẻ bảy. Nhưng đau đớn hơn bà Thêu lại bị chính ông Chánh - người lúc đầu rất say mê bỏ rơi. Sau khi bà Thêu sinh Rêu, ông chánh Long không đoái hoài gì đến hai mẹ con nữa, song cũng không giải phóng. Chánh Long nghi ngờ sự chung thuỷ của bà, nghi ngờ Rêu không phải là con của mình. Bà Thêu bị “bỏ lửng”, cuộc sống ân ái vợ chồng lúc trước vốn đã không trọn vẹn, giờ lại bị chánh Long quên hẳn. Có thể nói bà Thêu đã goá chồng ngay khi chồng vẫn đang còn sống, song bà cũng không thể đến được với bất kỳ người đàn ông nào nữa và cũng không có ai dám đến với bà. Bi kịch của bà Thêu cũng là bi kịch chung của những người phụ nữ làm lẽ trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến. Làm người nhưng hạnh phúc chính đáng của người đàn bà cũng bị tước đoạt. Để rồi khi cải cách về, bà Thêu ngồi ghế quan toà xét xử chính chồng mình. Con gái bà, cô bé Rêu vì không chịu được cảnh mẹ đấu tố cha và tằng tịu với đội Khoát nên đã nhảy xuống giếng chùa tự tử. Cái chết của cô con gái khiến bà luôn day dứt khôn nguôi. Bi kịch của bà Thêu chính là cái chết về tinh thần chứ không phải cái chết về thể xác.

Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua “Đội gạo lên chùa” - 10

Đó còn là những con người phải chịu “trò đùa‟‟ của số phận như nhân vật Độ. Độ sinh ra đã là đứa trẻ mồ côi mẹ, thiếu thốn tình cảm. Vì sự ngỗ


nghịch của tuổi trẻ đã bị chính cha mình cắt gân hai chân. Độ như con thú hoang, mất hết lòng tin ở con người. Khi gặp Khoai, Độ cảm nhận được hơi ấm, sự yêu thương của người đàn bà, điều mà hắn chưa bao giờ có đã khiến Độ trở nên hiền lành hơn, muốn gây dựng hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi Khoai bị chết vì rắn cắn. Nỗi đau đó khiến Độ đã phải bỏ làng mà đi, rồi thành kẻ cướp. Và rồi trong một lần bị thương, được sư Vô Uý trị bệnh và cảm hóa đã đốt một ngón tay để nguyện xin bảo vệ phật pháp cả đời.

Khám phá nhân vật qua số phận, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh thể hiện cái nhìn đa diện về con người. Từ đó đem đến cho người đọc nhiều chiêm nghiệm, suy nghĩ về con người và cuộc đời.


Chương 3

NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ TỰ SỰ

3.1. Nghệ thuật kết cấu

Kết cấu là một phương diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Bất cứ một tác phẩm nào cũng có một hình thức kết cấu nhất định, mang đặc trưng thể loại. Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm‟‟[23].

„„Là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định‟‟[18]. Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật, nhờ kết cấu mà các hiện tượng, sự vật, con người được liên kết lại trong một chỉnh thể nội dung thống nhất và từ đó bộc lộ quan điểm, tư tưởng của nhà văn. Bởi vậy, kết cấu là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của sáng tác văn học.

Trong thể loại tiểu thuyểt, kết cấu có vai trò đặc biệt quan trọng, nó đóng vai trò trực tiếp trong việc tổ chức hệ thống tính cách nhân vật, hệ thống sự kiện và nhân vật, xác lập tỷ lệ hợp lý giữa các thành phần và tuyến phát triển của cốt truyện, phối hợp một cách cân đối giữa trọng điểm và các bộ phận hỗ trợ của tác phẩm theo quy luật phát triển khách quan của đời sống.

Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa có bố cục ba phần: Phần I - Trôi sông (18 chương) viết về thời đoạn kháng chiến chống Pháp, Phần II - Bão nổi can qua (5 chương) viết về thời đoạn hoà bình lập lại trên miền Bắc, Phần III - Về cõi nhân gian (9 chương) viết về thời đoạn chống Mỹ và những ngày đầu thống nhất đất nước với trục sự kiện về số phận hai chị em An, Nguyệt cùng với cuộc sống và số phận của những người dân gắn với ngôi chùa Sọ vùng chân Tam Đảo.

3.1.1. Mở đầu và kết thúc tiểu thuyết Đội gạo lên chùa

Bất kỳ một văn bản ngôn từ nào cũng có mở đầu và kết thúc. Vị trí của phần mở đầu và phần kết thúc có ý nghĩa to lớn trong việc làm nổi bật chủ đề


của tác phẩm. Vì thế, tác phẩm không được mở đầu và kết thúc một cách tuỳ tiện, ngẫu nhiên.

Trong tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nới riêng phần mở đầu có một vị trí quan trọng. Bởi đây chính là phần mà độc giả tiếp nhận đầu tiên. Nhà văn phải khơi gợi được sự hiếu kỳ, kích thích hứng thú khám phá cho độc giả ngay từ những trang đầu, đồng thời tạo hiệu quả hấp dẫn cho tác phẩm. Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa mở đầu là chuyện Tây càn, bắn giết nhiều người trong đó có cha mẹ của An và Nguyệt. Tây rút đi, lý trưởng tề muốn ép Nguyệt làm bà lý năm. Trước tình cảnh đó hai chị em phải bỏ trốn khỏi làng. Cuối cùng hai chị em dạt đến ngôi chùa Sọ và được sư cụ Vô Uý cưu mang, che chở. Nhà văn đã xây dựng phần mở đầu tác phẩm không phải bằng cách nêu sự kiện quá khứ mà ở thời hiện tại. Đó là cách mở đầu theo kiểu: sự kiện ở thời điểm hiện tại chính là hệ quả của một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Khác với tiểu thuyết lịch sử chương hồi là trình bày các sự kiện theo trình tự thời gian, nhà văn đã nêu lên một kết quả rồi sau đó mới giải thích nguyên nhân bằng việc kéo thời gian lùi về thời điểm trước đó. Trong tác phẩm, sự kiện đầu tiên là hai chị em Nguyệt, An đến xin sư cụ Vô Uý cho nương nhờ cửa Phật. Sự kiện đó xảy ra ở thời điểm hiện tại ở một ngôi chùa vào một đêm tháng ba: tối đen như mực, lạnh đến xương tuỷ, tiếng súng vọng xa xa, tiếng dế, tiếng ếch nhái kêu rỉ rả…. Đọc đến đây độc giả sẽ đặt ra câu hỏi “Vì sao hai chị em Nguyệt lại đến xin được ở chùa vào một đêm khuya khoắt như vậy?‟‟ Nguyên nhân được lý giải trong câu chuyện Nguyệt kể với sư cụ Vô Uý: trong trận càn của giặc Pháp cha mẹ bị giết, ông lý muốn cuới Nguyệt làm bà năm nên hai chị em phải trốn khỏi làng.

Kết thúc tác phẩm là một trong những phương pháp tổ chức kết cấu của tác phẩm. Qua kết thúc của tác phẩm người đọc sẽ cảm nhận được quan niệm của nhà văn về con người và cuộc đời. Đồng thời qua phần kết thúc của tác


phẩm giúp độc giả thấy được tài năng của người cầm bút. Trong Đội gạo lên chùa, nếu như mở đầu tác phẩm là cảnh đau thương, loạn lạc của người dân Việt Nam trong cuộc xâm lược của thực dân Pháp thì kết thúc tác phẩm là không khí của những ngày hoà bình. Đất nước đã ngưng tiếng súng, An được giải ngũ, trở về với đời cùng Huệ xây dựng hạnh phúc gia đình. Họ vừa làm kinh tế vườn vừa chữa bệnh cho người dân và mở am thờ Phật ngay tại nhà. Đây là một cái kết rất gần với phần kết trong các truyện dân gian. Ở một mức độ nào đấy có thể cho rằng đây là một cái kết có hậu. Nhân vật chính và những nhân vật xuất hiện ở phần mở đầu trải qua bão táp lịch sử cuối cùng cũng được hưởng hạnh phúc mặc dù có muộn mằn. Tuy nhiên, sự kết thúc này chỉ dừng ở phạm vị văn bản, tiểu thuyết không hoàn toàn chấm hết, nó không hoàn toàn dừng lại, bởi tác phẩm để lại nhiều dư âm trong lòng người đọc. Đó là sự ngộ ra chân lý sống, là sự trường tồn của văn hoá/ Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Việt trong thời hiện đại qua độc thoại mang tính triết lý của nhân vật An ở cuối truyện: “Kiếp người chẳng qua như những con đom đóm. Vầng trăng kia là ánh sáng của Phật, toả chiếu khắp nhân gian. Kiếp nhân sinh là con đom đóm. Chẳng ai thắp mà nó vẫn sáng. Nghĩa là con người vốn có ánh sáng trong mình. Trong đêm đen, con đom đóm cố hết sức để tự phát sáng. Ánh sáng ấy nhỏ nhoi, yếu ớt lắm. Nhưng dù sao cũng là ánh sáng”[36, tr.866].

Kết cấu tiểu thuyết Đội gạo lên chùa có mở đầu và kết thúc theo kiểu đầu cuối tương ứng. Tác phẩm được mở đầu ở thì hiện tại và kết thúc cũng ở thời hiện tại. Đây cũng chính là một sự cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh so với các tiểu thuyết truyền thống.

3.1.2. Tổ chức kết cấu cốt truyện

Trong tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng thì cốt truyện là một phương diện phức tạp của kết cấu. Chính sức lôi cuốn, hấp dẫn của cốt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/05/2024