Vị Thế Và Ngôn Ngữ Người Kể Chuyện


Sự kết hợp, luôn phiên người kể chuyện khiến cho sự kiện, nhân vật, biến cố…trong tác phẩm hiện lên vừa mang tính chủ quan và khách quan. Với hai trường nhìn này tạo điều kiện cho tác giả đi sâu khám phá tâm trạng của nhân vật, đồng thời tạo cho tác phẩm có cấu trúc đa tầng có khả năng phá vỡ tính đơn âm. Người đọc như đang được tham gia vào câu chuyện, cùng đối thoại với nhân vật, đối thoại với lịch sử. Đây chính là sự cách tân mới mẻ của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.

3.2.2. Vị thế và ngôn ngữ người kể chuyện

Trong tiểu thuyết, hình tượng người kể chuyện “đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh”[23]. Vì thế, ngôn ngữ người kể chuyện có vai trò đặc biệt quan trọng trong một tác phẩm tiểu thuyết. Đây là một trong ba hình thức ngôn ngữ của tiểu thuyết, nó chi phối ngôn ngữ của nhân vật. Ngôn ngữ của người kể chuyện là ngôn ngữ của người đóng vai trò kể chuyện. Người ấy phải biết chuyện, chứng kiến hay trải qua để kể lại, họ không nhất thiết là chính tác giả mặc dù tác giả là người viết ra lời kể. Trong tác phẩm, ngôn ngữ người kể chuyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức hệ thống ngôn ngữ thành một cơ cấu hoàn chỉnh, thống nhất, thậm chí còn tham gia vào kết cấu của tác phẩm. Đối với nhà văn, ngôn ngữ của người kể chuyện trở thành phương tiện đánh giá các nhân vật, xác định các tính cách chung và miêu tả các sự kiện của đời sống. Là phương tiện bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Trong một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện với ngôn ngữ riêng có cá tính độc đáo.

Trong Đội gạo lên chùa có sự kết hợp giữa người kể chuyện ngôi thứ ba vô nhân xưng và người kể chuyện xưng Tôi - nhân vật An. Người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt với điểm nhìn từ bên ngoài là người đứng ngoài


quan sát, biết toàn bộ câu chuyện. Còn người kể chuyện xưng Tôi là người trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm, suy nghĩ và ngộ ra những chân lý về cuộc đời. Do đó, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa hiện lên vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan qua ngôn ngữ của người kể chuyện.

Tiểu thuyết lịch sử tái hiện cho người đọc thấy được không gian, thời gian, các biến cố, sự kiện… diễn ra trong lịch sử, vì thế ngôn ngữ của người kể chuyện cũng mang dấu ấn của lịch sử. Trước hết, đó là ngôn ngữ người kể chuyện mang tính chất thông báo các sự kiện như: cuộc đảo chính mồng 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, cách mạng tháng tám năm 1945, năm 1947, năm 1946, năm 1950 quân Pháp tấn công lần thứ hai, năm 1954 giải phóng thủ đô…. Hay trong từng thời kỳ lịch sử ngôn ngữ dùng để định danh cũng có sự khác nhau. Chẳng hạn ở phần I của tiểu thuyết ta bắt gặp cách gọi những người Việt Nam yêu nước tham gia chống Pháp là „„Việt Minh”, thì đến phần II và III chúng ta thấy xuất hiện các từ như “bộ đội”, “đồng chí”… Hay chỉ trong thời kỳ cải cách mới có các từ ngữ : đấu tố, tố khổ,….

Là người đứng ngoài quan sát nên ngôn ngữ của người kể chuyện bên ngoài mang tính khách quan. Chẳng hạn khi lý giải về nguyên nhân tại sao Bernard vốn từ con người hiền lành bỗng trở thành kẻ giết người không ghê tay, người kể chuyện đã dùng lý lẽ của khoa học để lý giải „„Người ta giải thích rằng: khi một người lính đi xâm chiếm phối kết với một người đàn bà thuộc địa, thì đứa con sinh ra sẽ là một bãi chiến trường cho cuộc tranh chấp giữa dòng máu nội và dòng máu ngoại. Nếu phía người mẹ thắng, người con sẽ đứng về phía ngoại. Nhiều người lai đã trở thành những chiến sỹ chống thực dân kiên quyết nhất. Nếu phía người cha giành giật được, đứa con sẽ trở thành kẻ chống lại bầu sữa đã nuôi nấng nó một cách điên cuồng. Hắn cố phủ nhận người mẹ. Và để lấy lòng người cha, hắn sẽ không từ một thủ đoạn nào. Hắn ghê tởm dòng máu người mẹ mà hắn đang mang trong huyết quản. Hắn


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

cực kỳ nguy hiểm, bởi vì hắn từ lòng mẹ chui ra, hắn tất cả những gì thuộc về người mẹ. Bernard thuộc về trường hợp này”[36, tr.70]. Hay khi giới thiệu về lai lịch của Thailan, mặc dù Tháilan là người Pháp, thực hiện sứ mệnh của nước Pháp nhưng qua ngôn ngữ của người kể chuyện nhân vật này hiện lên là người “trọng sự trung thực, lương thiện và danh dự. Tính quân nhân và tính quý tộc là hai điều thấy rõ nơi ông”[36]. Với những hiểu biết về đạo Phật, người kể chuyện đã cho người đọc cũng thấy được mặt tích cực và hạn chế của đạo Phật về tâm từ bi “Hai chữ từ bi dù sao cũng được nhiều người mang giữ mặc dù mang nó có khi thiệt vào thân. Nhưng nếu hai chữ ấy mất đi hoàn toàn chắc chắn con người sẽ rơi vào thời kỳ mông muội. Thiếu nó, con người sẽ chẳng còn là con người”[36, tr.384].

Để nhân vật tự kể chuyện tác giả có nhiều thuận lợi để quan sát, giãi bày, phân tích thế giới tâm hồn nhân vật. Nhân vật tham gia kể chuyện khiến cho câu chuyện được nhìn qua lăng kính chủ quan, tái hiện được nội tâm của chính nhân vật. An vốn là một cậu bé mồ côi cha mẹ trong trận càn của giặc Pháp được sư cụ chùa Sọ chở che trở thành chú tiểu An, lớn lên trong chùa rồi lại hoàn tục với đời khi tham gia bộ đội và trở thành chồng của Hụê. An là người trực tiếp chứng kiến, can dự vào các sự kiện của một giai đoạn lịch sử nên ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc riêng, thể hiện những trải nghiệm cá nhân. Với việc kết hợp linh hoạt ngôn ngữ mang màu sắc Phật giáo với ngôn ngữ giản dị, đời thường của người kể chuyện xưng tôi - nhân vật An, toàn bộ cuộc sống và văn hoá Phật giáo dần được hiện ra. Khi nói về nghững giáo lý đạo Phật có lúc là ngôn ngữ phật giáo trang nghiêm nhưng cũng có lúc được nhìn nhận diễn giải theo ngôn ngữ của con người thế tục, nôm na dễ hiểu. Ngôn ngữ kể chuyện của nhân vật An mang sắc thái chủ quan, trong khi kể về các sự kiện, nhân vật, biến cố lịch sử… người đọc nhận thấy tâm trạng, tình cảm của An đối với sự việc đang được kể. Chúng ta bắt gặp nhiều từ cảm thán

Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua “Đội gạo lên chùa” - 12


trong ngôn ngữ người kể chuyện: “buồn thay”, “ôi chao”, “Trời ơi”…Khi kể về chuyện sư cụ bi bắt giam, bị đánh đập, tra khảo người đọc không chỉ thấy được sự tàn ác của kẻ thù đối với người dân Việt nói chung và với người tu hành nói riêng. Đồng thời ta cũng thấy được cảm xúc của người kể chuyện đó là tâm trạng lo sợ, là tức giận, oán hận để rồi hoài nghi về việc phải sống như thế nào mới đúng….

Với lớp ngôn ngữ đặc tả, cái ác hiện lên trong tác phẩm cụ thể và chân thực. Vấn đề chiến tranh, cải cách ruộng đất không còn là một đề tài mới mẻ với văn học song ở Đội gạo lên chùa nhà văn đã không ngại ngần chỉ ra những sai lầm của lịch sử mà văn học một thời ngại nói đến. Đó là những tội ác man rợ của kẻ thù, Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả cuộc hành hình thầy giáo Hải “Cái đầu lâu bị kéo mạnh văng ra, đập vào mặt hắn làm mặt hắn nhoe nhoét máu. Cái thân hình mất đầu máu phun ra thành vòi. Cái vòi máu đỏ theo nhịp tim lúc lên cao lúc xuống thấp. Người đứng xem có thể cảm nhận được nhịp đập của con tim qua luồng máu chảy. Còn cái đầu lâu của thầy giáo Hải đã rời khỏi cổ rồi mà đôi mắt vẫn còn chớp chớp và đôi môi vẫn còn mấp máy”[36, tr.421-422]. Đó là quang cảnh của cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải cách đó có bao người bị tố oan, bị chết oan, những con người vô tội cũng bị liên đới cũng phải chịu những hình phạt. Với ngôn ngữ đặc tả người kể chuyện đã dựng lên cảnh đấu tố địa chủ Chánh Long với tư thế “bị treo ngược cái lưng bán cho trời, cái mặt cúi xuống đất (…). Cái bụng cong thõng xuống. Hai khuỷu tay kéo lên khỏi lưng trông như hai cái càng châu chấu. Cái thân người, đôi chân, đôi tay bị trọng lượng kéo xuống nên coi gần như bất động. Chỉ còn cái cổ, cái đầu là vẫn tự do họat động”[36, tr.540-541]. Đây chính là nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, là sự “nhận thức lại” trong đổi mới tư duy tiểu thuyết. Nhà văn không bộc lộ


thái độ tố cáo, phanh phui tội ác mà người đọc thấy ở đó sự xót xa, sự nhìn nhận lại về lịch sử một thời đã qua.

Trong Đội gạo lên chùa ngôn ngữ ngữ người kể chuyện cũng đầy chất thơ, lãng mạn khi miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên: cảnh mùa lúa chín, mùa hoa dẻ, cảnh hoàng hôn Tây Nguyên, cảnh bình minh Trường Sơn... Chẳng hạn cảnh bình minh ở Trường Sơn được miêu tả đẹp mỹ lệ “Mặt trời lúc này mới chịu nhô lên khỏi dãy núi, lấp ló sau màn sương đục. Ánh sáng và sương đùa giỡn nhau, tạo ra một bầu trời và quang cảnh núi non cực kỳ mĩ lệ. Thiên nhiên như một hoạ sĩ vẽ rồi lại xoá. Gió thổi, sương tan. Một đám mây xa xa được ánh mặt trời núp ở phía sau biến thành một đám mây ngũ sắc. Dãy núi xanh sẫm bỗng nhiên đổi màu. Cả một vạt rừng bao la bỗng long lanh, cánh rừng như được nhìn qua một chiếc kính vạn hoa”[36, tr.788]. Người kể chuyện đã dẫn người đọc không chỉ tham dự vào những sự kiện lịch sử mà còn những giây phút để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Với ngôn ngữ trữ tình đằm thắm người kể chuyện đã góp phần tạo nên sức lôi cuốn độc giả đến với Đội gạo lên chùa.

Ngoài ra, trong Đội gạo lên chùa chúng ta còn bắt gặp sự đan xen, hoà quện giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Nhiều khi chúng ta khó có thể phân biệt được đâu là ngôn ngữ nhân vật, đâu là ngôn ngữ của người kể chuyện. Chẳng hạn “Ông cử Mậu là nhà nho thuần khiết. Ông cũng không cực đoan tới mức bài xích đạo Phật. Tuy nhiên ông tin tưởng vào sự nhập thế tích cực của đạo nho. Muốn thương yêu đồng loại ư? Hạnh phúc cho mọi người ư? Thế thì hãy ở giữa cõi đời này mà sống. Can chi mà phải xa lánh trần gian”[36, tr.256].

Sự song hành, bổ trợ cho nhau giữa hai vai kể trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa đã tạo nên sức lôi cuốn của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh. Qua ngôn ngữ của người kể chuyện đã cho thấy trường nhìn, quan điểm của


nhà văn về sức sống bền vững của văn hoá Phật giáo trong tâm hồn người Việt trong những ngày tháng lịch sử của dân tộc.

3.2.3. Các yếu tố kì ảo, ẩn dụ, tượng trưng

*Yếu tố kì ảo

Yếu tố kì ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử văn học. Để phán ánh nhận thức còn “ngây thơ” của con người, ngay từ thời cổ đại các yếu tố kì ảo đã xuất hiện trong các tác phẩm văn học dân gian. Yếu tố kì ảo xuất hiện trong sự phát triển chung của văn học từ cổ đại đến trung đại, hiện đại, tuy nhiên mỗi giai đoạn sự xuất hiện các yếu tố này đậm nhạt khác nhau. Trước năm 1975 với mục đích văn học phục vụ chiến đấu nên yếu tố kì ảo ít có dịp xuất hiện trong các tác phẩm. Đến năm 1986 với tinh thần đổi mới, các nhà văn đã sử dụng yếu tố kì ảo như một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu để thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống và con người.

Các nhà tiểu thuyết Việt Nam cuối thế kỉ XX như Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái…đã đưa các yếu tố kì ảo vào tác phẩm của mình nhằm phản ánh đời sống khách quan và đời sống tinh thần, tâm linh của con người hiện đại.

Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa nhà văn tiếp tục đưa vào tác phẩm những yếu tố kì ảo. Đây là một sự tiếp nối thủ pháp nghệ thuật của nhà văn trong Hồ Quý Ly Mẫu thượng ngàn. Đội gạo lên chùa yếu tố kì ảo trong tác phẩm này không nhiều song qua đó nhà văn lão thành bộc lộ những suy nghĩ, những quan niệm riêng về cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã dụng công xây dựng các yếu tố kì ảo đặc trưng với mô típ cái chết đi liền với sự trở về của hồn. Trong tác phẩm nhà văn đã để cho người chết trở về với người sống qua những dấu hiệu khác lạ. Đó là khi em Choắt - em của Sinh (sư Vô Uý) chết khi mới lên ba tuổi, Sinh thương khóc em, xin em hiện hồn về thì lập tức sự là xảy ra “Tối mùa hè oi ả. Không một ngọn gió. Cây nhãn đứng


im. Bụi tre không lắc lư cót két. Ba cây cau trước nhà thì hai cây vẫn thẳng đơ im phăng phắc. Chỉ có cây cau ở giữa là đung đưa, rồi những tàu cau rung lên bần bật như múa, như gọi, như vẫy tay‟‟[36, tr.332]. Hay khi bà Thêu thắp hương khấn hồn Thêu thì điều tương tự cũng xảy ra “Trời không có một sợi gió. Cây cối trong vườn đứng im phăng phắc. Thế mà bỗng dưng ngọn cây lan đột nhiên lay động rồi múa lên, rung lên bần bật”[36]. Trong niềm tin của rất nhiều người dân Việt, trong mỗi con người ai cũng có phần hồn và phần xác. Khi con người chết đi tức là chỉ mất đi phần xác thịt thô tục bên ngoài còn linh hồn vẫn sống và chờ đầu thai vào kiếp khác. Hay sự trở về của linh hồn nhập vào những sinh thể đang sống trên cõi trần. Đó là sự hiện về của hồn cô Thắm, ông cụ Khố và bà vãi Thầm trong hình hài con đom đóm, trở về để báo mộng, để gặp lại những người thân yêu. Đó còn là những con người cõi âm trở về đối thoại, nói chuyện với người đang sống trong cõi vô thức. Giữa người cõi trần và người cõi âm luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Yếu tố kì ảo giúp nhà văn khai thác thế giới tâm linh của con người, đồng thời đưa người đọc đến với nhận thức về ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người.

Trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh không chỉ đặt ra vấn đề khát vọng được sống của con người mà quan trọng hơn đó là sống như thế nào. Con người phải có cách ứng xử với cuộc đời như thế nào cho đúng khi mà thời hiện đại các giá trị đạo đức, lối sống đang bị tha hoá, xuống cấp. Yếu tố kì ảo đã trở thành phương tiện tuyệt diệu để nhà văn đề cập đến vấn đề nhân sinh, về kiếp người. Không phải ngẫu nhiên sư cụ Vô Uý kể cho chú tiểu An nghe về câu chuyện nhờ tâm từ bi mà đức Thế Tôn cảm hoá được con voi say. Hay con hùm - đệ tử Khoan Hoà của sư Vô Uý lại có khả năng phân biệt được kẻ xấu người tốt, hành xử cũng nhuốm màu từ bi của đạo Phật. Đạo Phật không chủ trương bạo lực nhưng triết lý sống của đạo Phật là luôn hướng con người đến với cái thiện, làm điều thiện. Chính vì thế, cái thiện đã không


chỉ cảm hoá được con người mà còn có khả năng cảm hoá được cả loài vật. Qua những yếu tố kì ảo đó, nhà văn đã khẳng định sức mạnh vô hình của tâm từ, bi, hỉ, xả nhà Phật. Đó chính là niềm tin vào Phật tính trong mỗi con người của nhà văn.

Như vậy, với yếu tố kì ảo trong Đội gạo lên chùa Nguyễn Xuân Khánh khẳng định cái đẹp, cái tốt trong mỗi con người luôn tồn tại, nó giúp con người vượt lên trên mọi khổ đau của cuộc đời. Đồng thời tác giả đã thể hiện được sức mạnh, vẻ đẹp của đạo Phật trong văn hoá tâm linh của con người Việt Nam .

*Ẩn dụ, tượng trưng

Ẩn dụ và tượng trưng là hai phương thức chuyển nghĩa của từ ngữ, hai phương thức này thực hiện chức năng làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau, có khi nghĩa của từ vốn biểu thị đối tượng này lại được chuyển sang biểu thị đối tượng khác. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ẩn dụ được hiểu là “phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia, mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo”[23]. Còn tượng trưng „„là một ẩn dụ đặc biệt, một quy ước khiến mọi người đều hiểu rõ từ ngữ này có thể biểu thị một đối tượng khác ngoài cái nội dung ngữ nghĩa thông thường của nó”[18, tr.153]. Mọi tượng trưng đều là hình tượng, tượng trưng chỉ cái phần mà hình tượng vượt ra khỏi chính nó.

Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa nhà văn cũng sử dựng phương thức chuyển nghĩa trong việc xây dựng hình tượng. Đó là những hình tượng gợi lên sự thiện - ác hiện hữu giữa cuộc đời. Nhân vật Bernard trong phần I của tác phẩm là một hình tượng mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, Tây lai Bernard Martinot là hình tượng tượng trưng cho cái ác. Nhân vật Tây lai này chính là sản phẩm của sự phối kết giữa một người lính Pháp đi xâm lược Việt Nam và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/05/2024