Những Hạn Chế Về Nâng Cao Trình Độ Tư Duy Chiến Lược Cho Đội Ngũ Cán Bộ Lãnh Đạo Ở Nước Ta Và Nguyên Nhân


dựng chủ nghĩa xã hội dần được làm sáng tỏ. Như việc nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Những định hướng mà Cương lĩnh vạch ra đã giúp chúng ta có định hướng để phát triển cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với những định hướng ấy, cả nước ta đã có những bước tiến rất lớn, hợp quy luật, đáp ứng được bước đầu cho những công cuộc hội nhập quốc tế.

Trong Cương lĩnh 2011, những định hướng cho sự phát triển đất nước tiếp tục được bổ sung làm rõ trên nhiều lĩnh vực cụ thể: về phát triển kinh tế; phát triển các ngành, vùng; văn hóa, xã hội; khoa học, công nghệ; chính sách xã hội; xây dựng cộng đồng xã hội văn minh; quốc phòng, an ninh, định hướng đối ngoại; về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị. Đặc biệt, trong Cương lĩnh này, một nội dung rất quan trọng được đề cập đến, đó là việc xác định tám mối quan hệ lớn mang tính quy luật của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [25, tr.72].

Bằng những định hướng rõ ràng ấy, trong những năm qua, cả nước chúng ta bắt tay thực hiện những mục tiêu cụ thể đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Việc nhận thức về các mối quan hệ là đúng đắn và các mối quan hệ đó đang được xử lý tốt. Những nguyên tắc và phương châm nhận thức cũng như thực hiện của Đảng ta đều xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực


tiễn đất nước. Công tác dự báo xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, tích cực và tiêu cực được chú trọng nghiên cứu, trên cơ sở đó để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách thức và nguy cơ. Đó chính là kết quả của tư duy đúng đắn, sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, sự phát triển về tầm nhìn chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta, nhờ đó đã vạch ra những hướng đi đúng, phù hợp, vượt qua những thách thức giành thắng lợi.

Tổng kết 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [28, tr.65]. Những thành tựu ấy được thể hiện ở chỗ:

Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền của cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hộ chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao [28, tr.66].

Đây chính là kết quả của chủ trương đổi mới toàn diện được vạch ra và thực hiện từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986).

Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 175 trang tài liệu này.


đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử [28, tr.66].

Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 12

Kết quả đạt được này cũng chính là thành quả của sự thay đổi tư duy trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta. Được rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ; cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; năng động sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trình độ, kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân.

Đây là những kết quả không thể phủ nhận về sự phát trình độ tư duy cũng như hiệu quả hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo ở nước ta trong thời gian qua. Đứng trước tình hình mới của đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ XII, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta tiếp tục khẳng định năng lực, tầm tư duy, tư duy chiến lược thông qua những nhận định về tình hình quốc tế cũng như trong nước trong những năm tới, khẳng định ở việc đặt ra những mục tiêu phát triển trong 5 năm và cho tới năm 2030 tầm nhìn 2045. Cùng với đó là xây dựng những giải pháp để thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra. Đại hội XII cũng đã xác định các nhiệm vụ tổng quát là: “ Phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” [27, tr.17]. Cho tới nay, sau hơn ba năm những phương hướng và nhiệm vụ mà Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra được thực hiện thắng lợi, hầu hết những chỉ tiêu đặt ra theo dự báo sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Những kết quả ấy cho thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta đã chỉ ra những nội dung phù hợp, những phương hướng và giải pháp đang phát huy những hiệu quả của nó.


3.1.1.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được

Để có được những kết quả ấy có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả nguyên nhân từ những yếu tố khách quan đưa lại và nguyên nhân chủ quan từ chính đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta.

Một là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta luôn được quan tâm một cách toàn diện từ phía Đảng và Nhà nước. Công tác cán bộ ngày càng được chú trọng hơn, xây dựng người cán bộ lãnh đạo của nước ta vừa hồng, vừa chuyên theo căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được nghi nhớ và thực hiện qua những thế hệ. Tu dưỡng và học tập không ngừng là yêu cầu không thể thiếu đối với người cán bộ lãnh đạo nhằm nâng cao cả phẩm chất, năng lực và uy tín. Qua mỗi thời kỳ, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với người cán bộ lãnh đạo lại được nâng cao nhằm đáp ứng những chuyển biến tiến bộ và cũng nhiều phức tạp của thế giới. Từ cuối thế kỷ XX đến nay, thế giới vận động với tốc độ ngày càng nhanh, quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh và rộng khắp kéo theo sự tham gia của tất cả các quốc gia vào quá trình đó. Mỗi quốc gia, để khẳng định sự tồn tại của mình, đều không thể đặt mình ra ngoài quá trình hội nhập vào sân chơi lớn của thế giới trên tất cả mọi phương diện, từ kinh tế, văn hóa, chính trị,... Trước sự vận động nhanh của quá trình toàn cầu hóa với cả những thuận lợi và khó khăn thách thức, đặt ra yêu cầu, đòi hỏi mỗi con người, trước hết là đội ngũ những người cán bộ lãnh đạo phải là những người nhanh nhạy với thời cuộc, có tầm nhìn xa trông rộng, vạch ra được những cái mới, dự báo, định hướng những bước phát triển của các lĩnh vực, từng vùng miền và của đất nước.

Hai là, từ chính những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn làm tư duy nói chung, tư duy chiến lược nói riêng của người cán bộ lãnh đạo phải được bồi dưỡng, nâng cao không ngừng để đáp ứng tình hình mới. Bên cạnh đó, bản thân người cán bộ lãnh đạo, đứng trước trọng trách được giao phó cũng không ngừng tự ý thức nâng cao trình độ bản thân để làm tròn trách nhiệm trước Đảng, trước dân, xứng tầm với vị trí, trách nhiệm của những người đứng đầu. Mỗi người cán bộ lãnh đạo hiện nay đều rất tích cực, chủ động trong quá trình hội nhập bằng


cách học tập nâng cao trình độ thông qua quá trình đào tạo, rèn luyện, học tập từ tài liệu trong nước, tài liệu nước ngoài, học tập thông qua chuyên gia, thông qua việc tăng cường trao đổi thông tin. Bên cạnh đó, ngày nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tích cực tham gia vào các quá trình thực tiễn, trực tiếp trải nghiệm thực tiễn để hiểu và rút ra các quy luật vận động, biến đổi của thực tiễn, tránh được sự giáo điều, quan liêu - là những yếu tố kìm hãm nhận thức, kìm hãm sự sáng tạo, hạn chế tầm nhìn xa trông rộng của tư duy. Bằng việc tham gia vào thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo có được cái nhìn đúng đắn và đầy đủ hơn về đối tượng, nhận diện được đúng bản chất, quy luật và những mối liên hệ của nó, từ đó lường được những thuận lợi cũng như những khó khăn, thử thách, nắm bắt và vạch ra xu hướng vận động của đối tượng hướng tới cải tạo, đề ra phương hướng cải tạo hiệu quả.

Ba là, sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong việc tự học tập, tự rèn luyện nâng cao trình độ tư duy chiến lược. Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng hiện nay, những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra về mặt trình độ trên mọi phương diện của người cán bộ lãnh đạo không ngừng nâng cao nhằm đáp ứng sự phát triển của đất nước. Người cán bộ, lãnh đạo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu rõ bản chất chính trị của của đất nước mình cũng như các nước khác trên thế giới; phải đứng vững trên nền tảng văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa dân tộc chính là vốn hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân tộc không phải ở cái hình thức bề ngoài, mà phải thẩm thấu các giá trị minh triết của cha ông; phải làm việc trong môi trường quốc tế là môi trường cạnh tranh rất khốc liệt về chuyên môn, trí tuệ và công nghệ cao, với những tiêu chuẩn, tiêu chí của giới tinh hoa các nước…

Đứng trước những đòi hỏi đó, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo nước ta đã không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao trình độ tư duy chiến lược nhằm đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ công tác, có hiểu biết sâu, rộng về văn hóa, phong tục, tập quán của các nước và định chế, luật pháp và thông lệ quốc tế. Trang bị và tự học hỏi để trang bị cho bản thân những kiến thức về thể chế, chính trị quốc tế,


đặc biệt là về quan hệ giữa các nước lớn trên thế giới, những nước có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với Việt Nam, các nước ASEAN, những nước láng giềng và bạn bè truyền thống; xác định cách thức hợp tác hiệu quả, phòng ngừa các rủi ro và ứng phó có hiệu quả với các thách thức. Đội ngũ cán bộ, lãnh đạo nước ta đã chủ động nắm bắt, đánh giá đúng thông tin, sát hợp với tình hình thực tiễn tạo nên những bước tiến đáng ghi nhận trong quá trình hội nhập. Đó là kết quả của sự học tập không ngừng ở đội ngũ cán bộ, lãnh đạo nước ta, không chỉ học tập thông qua những khóa đào tạo, bồi dưỡng, mà còn học từ thực tiễn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta hiện nay không ngừng thâm nhập, trải nghiệm thực tiễn, thu thập kiến thức từ thực tiễn phong phú tạo ra cơ sở dữ liệu cho quá trình tư duy, tìm ra những hướng tư duy đúng, phù hợp, nắm bắt được xu hướng sự vận động, biến đổi của thực tiễn và chính điều đó thúc đẩy nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước ta hiện nay.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế về trình độ làm cho đất nước phát triển chưa bền vững, nguy cơ tụt hậu còn lớn, chưa ứng phó kịp thời trước những biến đổi của tình hình.

3.1.2. Những hạn chế về nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta và nguyên nhân

3.1.2.1. Những hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm có vai trò to lớn trong tư duy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta vẫn còn không ít những bất cập, hạn chế về trình độ tư duy chiến lược. Tổng kết 30 năm đổi mới cho chúng ta thấy những kết quả không thể phủ nhận, khẳng định khả năng tư duy và tầm nhìn chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta. Tuy nhiên, cũng qua quá trình tổng kết, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém về mặt tư duy trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu thì cũng càng bộc lộ những hạn chế yếu kém cần sớm được khắc phục. Một số hạn chế nổi cộm có thể nêu ra ở đây là:


Còn nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp tầm nhìn hạn hẹp, thiển cận theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa; chưa nắm bắt được những quy luật khách quan dẫn đến việc đặt ra những mục tiêu dài hạn chưa phù hợp. Nhiều cán bộ lãnh đạo rơi vào lối tư duy nhiệm kỳ, vì lợi ích trước mắt, xa rời lợi ích lâu dài, lợi ích toàn cục, xa rời lợi ích của nhân dân. Lối tư duy nhiệm kỳ trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo chưa được khắc phục một cách hiệu quả cũng là sự hạn chế trình độ tư duy chiến lược. Theo tác giả Cao Văn Thống, “tư duy nhiệm kỳ” là lối suy nghĩ, hành động không đúng, bất chấp quy luật, điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cá nhân hoặc của một nhóm người, của tập thể trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, trong nhiệm kỳ thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhằm chủ yếu theo đuổi mục tiêu, lợi ích trước mắt trong ngắn hạn để thu lợi nhiều nhất cả về vật chất và tinh thần cho bản thân, cho nhóm lợi ích hoặc cho tập thể mà bỏ qua những mục tiêu, lợi ích dài hạn chung của tập thể, cộng đồng; hoặc do trình độ, năng lực hạn chế, thiếu thông tin, nắm chắc tình hình, dẫn đến nhận thức không đúng, không đầy đủ, đề ra và thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chương trình, quy hoạch, kế hoạch trong nhiệm kỳ không sát, đúng, trúng, không đem lại hiệu quả, thậm chí còn gây ra những hệ lụy và hậu quả khó lường cho cả hiện tại và tương lai lâu dài [108, tr.13-14]. Ở một khía cạnh nhất định, ta nhận thấy tư duy nhiệm kỳ có những đặc điểm trái ngược với tư duy chiến lược, là lực cản đối với tư duy chiến lược. Tư duy nhiệm kỳ chỉ quan tâm đến mục tiêu, lợi ích, thành tích đạt được trong ngắn hạn mà hoàn toàn không quan tâm đến mục tiêu dài hạn, mục tiêu chiến lược, kể cả khi việc đạt được mục tiêu, lợi ích ngắn hạn đó ảnh hưởng không tốt đến kết quả của mục tiêu, lợi ích dài hạn sau này, (đó có thể là của nhiệm kỳ sau, thế hệ sau) mà thực hiện bằng mọi cách và mọi giá.

Ở nước ta, nhiệm kỳ lãnh đạo kéo dài 5 năm, nhưng các chiến lược phát triển được đặt ra phải ở tầm nhìn 20 năm, 30 năm, hoặc lâu hơn. Những nhà lãnh đạo với tư duy nhiệm kỳ chú ý và thực hiện để đạt được ngay kết quả trong ngắn hạn, trong nhiệm kỳ đương nhiệm. Do vậy, họ chỉ chú trọng để đạt được các chỉ tiêu, lợi ích ngắn hạn mà bỏ qua những mục tiêu dài hạn. Với tư duy nhiệm kỳ sẽ khiến các chiến lược, những quy hoạch, kế hoạch trở nên bị chắp vá manh mún,


nhiều khi phải khắc phục hậu quả do những kết quả chắp vá, thiếu đồng bộ đó, rơi vào thực trạng nhiệm kỳ này để lại những hệ lụy cho nhiệm kỳ sau phải gánh. Chúng ta còn thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ, năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lý giỏi; thừa cán bộ lãnh đạo, quản lý kém cả phẩm chất đạo đức cũng như năng lực công tác. Việc thiếu tầm nhìn dài hạn, thiếu tư duy chiến lược dẫn đến những hiện tượng đầu tư không hiệu quả, thiếu đồng bộ, không mang lại những giá trị đối với thực tiễn, không phù hợp với nhu cầu của người dân, gây tổn thất trên nhiều mặt. Ở một số nơi, xảy ra hiện tượng những cán bộ lãnh đạo được phân công chỉ đạo những công việc cụ thể còn thiếu chuyên môn, trái chuyên môn, thiếu kinh nghiệm và chưa quyết liệt dẫn tới những xử lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, chưa phù hợp với nguyện vọng thực tiễn của nhân dân dẫn tới việc tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, chưa hiệu quả, gây những tồn thất rất lớn cho ngân sách.

Bước vào thời kỳ đổi mới, một bộ phận đáng kể cán bộ lãnh đạo của nước ta còn thiếu tư duy sáng tạo, nhạy bén với cái mới. Với hạn chế này dẫn đến việc tư duy không theo kịp diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, bất cập về nhiều mặt. Cũng như những kết quả đạt được thì những hạn chế trong tư duy đều thể hiện qua kết quả trong thực tiễn, đánh dấu ở tất cả các mặt trong đời sống xã hội. Từ kết quả tổng kết thực tiễn, tình hình kinh tế - xã hội, nền kinh tế vĩ mô nước ta tuy được nhận định là cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, chất lượng tăng trưởng còn thấp; thực hiện các đột phá chiến lược chưa đạt yêu cầu; việc chúng ta đưa ra nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là thiếu cơ sở khoa học, không khả thi mà Đại hội XII của Đảng đã phải thừa nhận. Trong quá trình phát triển, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa thật đồng bộ, thông suốt; việc phát triển nguồn nhân lực có khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ còn chậm, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được sự phát triển. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thích ứng biến đổi khí hậu còn nhiều mặt yếu kém; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế.

Xem tất cả 175 trang.

Ngày đăng: 08/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí