Cho dù tăng vốn theo cách thức này có quy mô không lớn nhưng với triển vọng kinh doanh và lợi ích của các cổ đông, thì đây vẫn là phương án cần thực hiện. Tính khả thi của phương án này phụ thuộc vào mức độ thuyết phục các cổ đông về kế hoạch kinh doanh trong tương lai.
- Phương án tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu rộng rãi cho công chúng. Theo nhận định cho đến hết năm 2015, phương án tăng vốn này khó có tính khả thi với nhóm các NHTM vừa với ba lý do. Một là: Những công bố về tình trạng tài chính không mấy bền vững của các Ngân hàng khiến tâm lý các nhà đầu tư trở nên dè dặt; Hai là: Nhiều nhà đầu tư thoái vốn trong lĩnh vực ngân hàng, đồng nghĩa với việc nguồn cung của các loại cổ phiếu của ngân hàng dư thừa so với lực cầu, do đó việc phát hành cổ phiếu để thu hút cổ đông mới khó có thể thực thi; Ba là: Nguồn lực tài chính của các nhà đầu tư đã trở nên cạn kiệt do những khó khăn chung của nền kinh tế nên với những cổ phiếu của ngân hàng hạng trung này khó hấp dẫn với các nhà đầu tư. Hơn nữa, xét về góc độ hiệu quả, phát hành cổ phiếu ra công chúng sẽ tốn kém chi phí trong khi hiệu quả sử dụng vốn ở thời điểm này chắc chắn không cao. Do vây, phương án phát hành cổ phiếu ra công chúng sẽ được các ngân hàng cân nhắc sau khi quá trình tái cấu trúc ngân hàng đã phát huy hiệu quả.
- Thu hút vốn của các nhà đầu tư ngoại: Trong số ngân hàng ở nhóm này đã có 4 ngân hàng có vốn đầu tư ngoại với mức vốn nắm giữ của mỗi cổ đông ngoại đã kịch trần gồm: Ngân hàng Phương nam (UOB nắm giữ 20%); Ngân hàng Oceanbank (BNP paribas nắm giữ 15%); Ngân hàng VIBank (Commonwealth Bank nắm giữ 20%); Ngân hàng Seabank (Société Générale nắm giữ 20%). Ba Ngân hàng còn lại chưa có vốn đầu tư ngoại là Ngân hàng Liên việt-Posbank; Ngân hàng Đông á; Ngân hàng Vpbank [47]. Như vậy, giải pháp đối với các Ngân hàng lúc này là chủ động tìm kiếm các nhà đầu tư mới, có nhu cầu đầu tư chiến lược để “đổ vốn”cho ngân hàng. Yếu tố quan trọng để tìm được những đối tác “ưng ý”hiện nay là ngân hàng phải minh bạch và lành mạnh hóa tình hình tài chính trên cơ sở giải quyết nợ xấu, có như vậy mới thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi với mức room hiện nay, các nhà đầu tư ngoại không thể có tiếng nói quyết định trong chiến lược hoạt động của ngân hàng, do vậy họ chỉ yên tâm khi đầu tư vào những ngân hàng có triển vọng về hiệu quả đầu tư.
- Sát nhập với các ngân hàng trong nước. Đế có một bước đột phá về quy mô hoạt động hiện nay, phương án tăng vốn mà ngân hàng có thể cân nhắc là sát nhập với một ngân hàng khác. Việc mua lại một ngân hàng yếu kém hiện nay là kém tính khả thi với các ngân hàng cỡ vừa, bởi với nguồn lực khiêm tốn mà ngân hàng phải “đèo bòng”thêm một ngân hàng yếu kém khác thì chỉ thêm chồng chất những khó khăn với ngân hàng. Vì vậy, họ chỉ có thể sát nhập với những ngân hàng cỡ lớn hoặc quy mô cỡ vừa để tạo ra sự “cộng sinh”cho ngân hàng. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi cần có sự tính toán, cân nhắc và tìm kiếm được những đối tác có cùng mục đích và điểm tương đồng.
Thứ ba: Với các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô vốn nhỏ.
Đây là nhóm ngân hàng cần nhanh chóng tăng quy mô vốn chủ sở hữu nếu muốn tồn tại. Những ngân hàng bị đưa vào tầm ngắm của NHNN đều nằm trong nhóm này, vì vậy việc tăng quy mô vốn chủ nhiều ngân hàng trong số đó là bắt buộc và gấp rút. Khác với các ngân hàng ở nhóm trên, tăng quy mô vốn chủ của những ngân hàng này không chỉ là củng cổ sức mạnh tài chính mà còn phải đi đôi với những thay đổi toàn diện về cơ chế quản trị. Vì vậy, hai phương án tăng vốn thích hợp nhất với các ngân hàng lúc này là:
Phương án 1:Sát nhập, hợp nhất hoặc tự nguyện để các ngân hàng khác mua
lại.
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Và Quan Điểm Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến Năm 2020, Tầm Nhìn Đến 2030.
- Định Hướng Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến 2020.
- Quy Trình Xây Dựng Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh.
- Tăng Cường Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng.
- Đẩy Mạnh Phát Triển Các Hoạt Động Phi Tín Dụng.
- Nâng Cao Hiệu Quả Của Công Tác Quản Lý, Thanh Tra Giám Sát Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Sau “cơn bão khủng hoảng”nhiều ngân hàng nhỏ bộc lộ những yếu kém,
thậm chí đứng trước nguy cơ đổ vỡ vì thanh khoản yếu, nợ xấu tăng cao. Vì vậy để có thể đứng vững, các ngân hàng này phải có sự hợp lực hoặc có một ngân hàng khác mạnh hơn để đóng vai trò “đầu kéo”. Với những ngân hàng nhỏ nhưng kết quả hoạt động không quá yếu, tình hình tài chính vẫn có thể vực lại thì phương án sát nhập, hợp nhất hoặc tự nguyện để các ngân hàng khác mua lại là phương án thích hợp. Phương án này có ưu điểm là giúp các ngân hàng vẫn có thể phát huy những lợi thế sẵn có của mỗi ngân hàng để tạo động lực cho các ngân hàng phát triển. Để thực hiện được phương án này, trước tiên các ngân hàng phải chủ động tìm kiếm những ngân hàng có nhiều điểm tương đồng về phương thức kinh doanh. Kế đến, các ngân hàng phải xây dựng lộ trình và thỏa thuận cách thức thực hiện.Trong đó,
các ngân hàng phải có được phương án hỗ trợ nhau để tháo gỡ khó khăn họ đang gặp phải.
Phương án 2: Tìm kiếm, kêu gọi các nhà đầu tư ngoại
Với những ngân hàng nhỏ buộc phải có những cải tổ để tồn tại, trong khi không dễ dàng để thực hiện được phương án sát nhập, hợp nhất do thiếu tính tương thích với các đối tác, hay không thể cùng nâng đỡ vì những điểm yếu khó có thể khắc phục thì tìm kiếm các nhà đầu tư ngoại là lựa chọn cần thiết để “thay máu” ngân hàng. Thực hiện phương án này không những ngân hàng có thể tăng quy mô vốn chủ sở hữu, mà còn giúp ngân hàng có thể thay đổi về cách thức quản trị hay thừa hưởng yếu tố công nghệ ngân hàng hiện đại. Tất nhiên, để hấp dẫn các nhà đầu tư ngoại thì điều kiện cần và đủ là bản thân các ngân hàng phải có tính minh bạch và tỷ lệ vốn nắm giữ của nhà đầu tư ngoại đủ để họ có thể quyền chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, với tình trạng tài chính không mấy thuyết phục như hiện nay thì cơ hội lọt tầm ngắm của các nhà đầu tư ngoại sẽ khó khả thi. Vì vậy, để có thể tồn tại được trên cơ sở đảm bảo vốn chủ thì việc sát nhập hay để các ngân hàng khác mua lại cần có bàn tay can thiệp của NHNN trên cơ sở tìm kiếm, hỗ trợ đối tác với vai trò “đầu kéo”.
3.2.3. Nâng cao năng lực quản trị ngân hàng đặc biệt là quản trị rủi ro và quản trị điều hành
Theo đánh giá thực trạng năng lực tài chính ở chương 2, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng năng lực tài chính thiếu tính ổn định, thậm chí được coi là yếu ở một số các ngân hàng là do công tác quản trị của ngân hàng còn nhiều hạn chế. Tăng năng lực tài chính trên cơ sở tăng qui mô vốn chủ sở hữu là cần thiết nhưng chưa đủ, bởi khi quy mô hoạt động của ngân hàng ngày càng mở rộng thì mức độ rủi ro càng gia tăng, vì vậy vấn đề sống còn với các ngân hàng là nâng cao năng lực quản trị của ngân hàng. Năng lực quản trị ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, cũng như là thước đo để đo lường khả năng chống đỡ với những biến động bất lợi của nền kinh tế. Để năng cao năng lực quản trị, các giải pháp mà ngân hàng cần chú ý là:
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác quản trị: Để có thể nâng cao hiệu quả của công tác quản trị thì trước hết phải phải xác định rõ tầm quan trọng
của nó. Vai trò của công tác quản trị mà trong đó đặc biệt là quản trị rủi ro không phải chỉ là nhiệm vụ với bộ phận quản trị rủi ro, mà nó phải trở thành vấn đề nhận thức với bộ phận lãnh đạo và mỗi nhân viên tác nghiệp. Quản trị ngân hàng phải được coi là một mảng nhiệm vụ thực hiện khi xây dựng chiến lược kinh doanh. Hoạt động quản trị rủi ro phải có một vị trí “hạt nhân”chứ không chỉ mang tính bổ trợ cho ngân hàng. Mọi quyết sách điều hành của hội đồng quản trị hay ban giám đốc đều phải dựa trên cơ sở những thông tin cung cấp từ bộ phận quản trị rủi ro. Đặc biệt hơn nữa, mỗi nhân viên ngân hàng phải thực sự trở thành một một nhân viên quản lý rủi ro cũng như nhận thức đầy đủ về yêu cầu quản lý rủi ro của ngân hàng, bởi hơn ai hết họ là người trực tiếp “tiếp xúc”và tác động đến “quy mô rủi ro”. Mọi hoạt động của ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với nhau nên đối với các cấp lãnh đạo cần có cái nhìn toàn diện khi xây dựng công tác quản trị rủi ro ngân hàng. Không chỉ quan tâm đến rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường mà công tác quản trị hoạt động cũng cần phải có sự nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của nó đến an toàn hoạt động ngân hàng. Để quản trị rủi ro thực sự được coi trọng, ngân hàng phải có những đầu tư thích đáng cho công tác này về chi phí để xây dựng quy trình quản trị rủi ro cũng như định hướng cụ thể trong các bước đi của mình.
Chủ động áp dụng mô hình quản trị rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Khi thị trường dịch vụ tài chính ngày càng mở cửa, các NHTM phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh ngày càng “khốc liệt”. Sân chơi chung không còn tính “bảo hộ”,đòi hỏi các NHTM phải chủ động áp dụng mô hình quản trị rủi ro phù hợp với những chuẩn mực và khuyến cáo quốc tế. Thay vì các ngân hàng chỉ thực hiện khi có quy định bắt buộc của cơ quan quản lý là NHNN, thì sẽ là hiệu quả hơn nếu các NHTMCP tự coi đây là một mục tiêu thực hiện trong việc xây dựng lộ trình phù hợp với thực lực của mỗi ngân hàng. Giải pháp này sẽ tránh cho các ngân hàng rơi vào cú sốc khi bắt buộc phải thực hiện theo quy định quản lý. Hiện tại, thực hiện công tác quản trị rủi ro theo yêu cầu của Basel 2 là một trong những nội dung cần thiết và cấp bách nhất với mỗi ngân hàng cổ phần. Basel 2 với những tiêu chuẩn hoạt động chặt chẽ và khắt khe hơn đang là một trong những thách thức đặt ra cho các NHTMCP.Sẽ không dễ dàng cho nhiều ngân hàng cổ phần thực hiện những khuyến cáo của Basel 2, nhưng muốn hay không muốn thì sớm muộn các NHTMCP
phải đối mặt với nó do xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh cũng như chủ trương quản lý của NHNN trong thời gian tới đây. Để đón đầu cho xu hướng này, trước mắt những NHTMCP nằm trong tốp lớn và vừa cần chủ động xây dựng lộ trình thực hiện. Để làm được điều này, những vấn đề mà các ngân hàng cần lưu ý là:
Thuê các chuyên gia tư vấn nước ngoài trong việc xây dựng lộ trình cũng như mô hình quản trị theo yêu cầu Bassel 2;
NHTMCP cần phải thực hiện đánh giá khoảng cách trong việc áp dụng Basel 2, làm được điều này sẽ khiến Ngân hàng lượng được sức mình để xác định lộ trình thực hiện phù hợp;
Nỗ lực củng cố “sức khỏe”nhằm đủ sức thực hiện những yêu cầu chặt chẽ của tinh thần Basel 2
Hoàn thiện mô hình quản trị rủi ro.
Hiệu quả của công tác quản trị rủi ro phụ thuộc nhiều vào mô hình quản trị rủi ro. Bởi mô hình quản trị rủi ro sẽ giúp các ngân hàng xây dựng được những hàng rào vững chắc để kiểm soát rủi ro. Thực tế, không có một mô hình quản trị hiệu quả chung cho các ngân hàng, mà mô hình quản trị rủi ro nên xây dựng theo đặc thù của từng ngân hàng gắn liền với chiến lược hoạt động và các chỉ số được lượng hóa trên cơ sở điều chỉnh theo mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận. Những yếu điểm bộc lộ trong công tác quản trị nói chung và trong quản trị rủi ro nói riêng của các NHTMCP trong thời gian vừa qua, đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng được một mô hình quản trị rủi ro hiện đại, tiếp cận được các chuẩn mực quốc tế. Mô hình quản trị rủi ro phải đảm bảo được ba hàng phòng thủ. Hàng phòng thủ trước tiên được xây dựng mang tính nền tảng là chính các bộ phận trực tiếp tác nghiệp tại các chi nhánh, các khối kinh doanh và các đơn vị vận hành khác. Đây chính là bộ phận tham gia trực tiếp vào công tác quản trị rủi ro, lập nên tuyến phòng thủ đầu tiên để bảo vệ ngân hàng.Ví như đối với quản trị rủi ro tín dụng, thì bộ phận quan hệ khách hàng sẽ lập thành hàng rào trước tiên để kiểm soát rủi ro tín dụng. Thứ hai: Bộ phận quản trị rủi ro và khối tuân thủ, quản trị rủi ro hoạt động và pháp chế: Đây là bộ phận đóng vai trò tư vấn thông qua việc xây dựng chính sách, khẩu vị rủi ro, quy trình quản trị rủi ro ngân hàng dưới sự hỗ trợ của hội đồng quản trị,thành lập hệ thống cảnh báo sớm . Bộ phận quản trị rủi ro sẽ huy động nguồn lực
để thực hiện quy trình quản trị rủi ro đã xây dựng nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Thứ ba: Bộ phận kiểm toán nội bộ: Đây là bộ phận hoạt động có tính độc lập với đơn vị, bộ phận điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng. Mục tiêu hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ là vì sự an toàn, hiệu quả của tổ chức tín dụng, giúp cho Ban Kiểm soát và Hội đồng quản trị về hiệu quả của ngân hàng xuyên suốt hoạt động của các bộ phận kinh doanh, vận hành, quản trị rủi ro.
Xây dựng loại rủi ro và mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận được.
Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đầy rủi ro, trên thực tế các ngân hàng không thể loại trừ rủi ro mà chỉ có thể kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro ở một mức độ nhất định. Hơn nữa, rủi ro- lợi nhuận là những vấn đề cần phải có sự dung hòa. Chính vì vậy, tùy thuộc vào “sức khỏe”của mình để ngân hàng có thể xác định mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Khi xây dựng yếu tố này ngân hàng có thể lựa chọn phương pháp thích hợp, nhưng dù có lựa chọn phương pháp nào thì nó cũng cần phải đáp ứng được các yêu cầu:
- Mức độ rủi ro có thể chấp nhận phải được xây dựng một cách toàn diện cho tất cả các loại rủi ro ngân hàng.
- Phải có tính định lượng và đo lường được mức độ tác động của từng rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng.
- Phải đảm bảo tính phù hợp với chiến lược hoạt động của ngân hàng.
Với mỗi ngân hàng, khi xác định khẩu vị rủi ro thì không phải nó mang tính bất biến mà cần có sự điều chỉnh theo thời gian trước những biến động từ nội tại hay bên ngoài ngân hàng.
Hoàn thiện chính sách và quy trình quản trị rủi ro. Để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro, ngân hàng cần xây dựng chính sách và quy trình quản trị rủi ro để tạo nền tảng cho việc thực thi công tác quản trị. Chính sách, quy trình quản trị vừa mang tính chỉ dẫn, đồng thời tạo cơ sở để đánh giá, điều chỉnh công tác quản trị của ngân hàng để đạt được mục tiêu mong đợi. Chính sách quản trị cũng mang tính đặc thù của mỗi ngân hàng, tuy nhiên những nội dung mà ngân hàng cần chú ý khi xây dựng là:
- Cơ cấu tổ chức, trách nhiệm và nhiệm vụ của quản lý rủi ro, đảm bảo yêu cầu độc lập giữa các bộ phận trong mô hình quản lý.
- Các phương pháp nhận dạng, đo lường rủi ro.
- Các phương pháp xác định các giới hạn rủi ro;
- Quy trình xử lý việc vi phạm các giới hạn rủi ro và các ngoại lệ với chính sách, quy trình quản lý rủi ro;
- Hệ thống thông tin quản lý, các mẫu biểu báo cáo và quy trình, cơ chế báo cáo phục vụ công việc quản lý rủi ro;
- Cơ chế phân cấp thẩm quyền phê duyệt các giới hạn rủi ro
Cần có những đầu tư thích đáng để nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản trị rủi ro.
Công nghệ thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng với công tác quản trị ngân hàng. Những ứng dụng công nghệ thông tin cho phép các ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động với mức độ sai sót thấp nhất hay phát hiện kịp thời các sự cố, gian lận nhằm giảm thiểu rủi ro. Mặt khác, công nghệ thông tin còn giúp ngân hàng có thể thu thập thông tin cung cấp cho công tác dự báo, phân tích rủi ro để ngân hàng có thể kịp thời có những biện pháp ứng phó nhằm giảm thiểu rủi ro. Thực tế, nhiều NHTMCP đã có những quan tâm đến vấn đề hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Tuy nhiên, do cân nhắc bài toán giữa chi phí và hiệu quả khai thác, thì phần lớn các ngân hàng mới chỉ chủ yếu chú tâm vào những công nghệ cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ, hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản trị vẫn chưa thực sự xứng tầm với yêu cầu đòi hỏi. Điều đó dẫn đến tình trạng không có đủ dữ liệu thống kê cần thiết để đánh giá đầy đủ mức tổn thất để có biện pháp kiểm soát phù hợp. Trong thời gian tới, tùy theo khả năng và nguồn lực đầu tư để ngân hàng có thể lựa chọn phương án tự xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hay mua của các nhà cung cấp. Để đảm bảo có hiệu quả khi đầu tư, ngân hàng cần có những tư vấn của các chuyên gia nước ngoài để đảm bảo sự tương thích và tính năng khai thác.
3.2.4. Nâng cao chất lượng tín dụng
Đối với các NHTMCP hiện nay, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính của các ngân hàng, điều này thể hiện tỷ trọng danh mục cho vay trong tổng cơ cấu tài sản của ngân hàng cũng như mức độ đóng góp thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là một trong những biện pháp tiên quyết để góp phần
lành mạnh hóa tình hình tài chính của các NHTMCP. Với bối cảnh hiện tại, để nâng cao chất lượng tín dụng thì các giải pháp mà NHTMCP phải tiến hành là:
3.2.4.1.Xử lý nợ xấu.
Một trong những nguyên nhân được cho là cơ bản nhất làm năng lực tài chính ngân hàng bị suy yếu trong thời gian gần đây bắt nguồn từ tình trạng nợ xấu gia tăng trong ngân hàng. Nợ xấu đeo bám, khiến các NHTMCP khó có thể có đủ nội lực để tăng cường đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Để nâng cao năng lực tài chính, biện pháp trước mắt mà ngân hàng phải phải thực hiện đó là xử lý nợ xấu đang “nắm giữ”. Cụ thể là:
Thứ nhất: Rà xóat và xác định rõ tình trạng nợ xấu của ngân hàng.
Qua kết quả được công bố sau khi NHNN thanh tra, kiểm tra ở một số các NHTMCP cho thấy những ngân hàng được thanh tra đều có tình trạng nợ xấu được công bố thấp hơn so với nợ xấu thực tế của ngân hàng. Che dấu nợ xấu để “làm đẹp”hơn hình ảnh của ngân hàng sẽ dẫn đến hệ lụy là nợ xấu sẽ ngày càng xấu hơn, tạo nên một mối nguy cơ tiềm ẩn lớn cho ngân hàng. Đối với những NHTMCP hiện nay, để tăng mức thu hút với các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài thì trước hết các ngân hàng phải có sự minh bạch hóa để trên cơ sở đó có những biện pháp xử lý thích hợp. Quan điểm che giấu nợ xấu, sẽ làm cho các NHTMCP khó có thể tìm được tiếng nói chung với các nhà đầu tư chiến lược ngoại.Các nhà lãnh đạo ngân hàng cần có những những nhận thức đúng đắn trong việc xác định rõ nợ xấu trên cơ sở tuân thủ đúng quy chế phân loại nợ theo quy định của NHNN. Việc xác định chính xác nợ xấu của ngân hàng không phải chỉ là nhiệm vụ của các nhà quản trị mà phải được quán triệt từ cán bộ tín dụng khi trực tiếp cho vay. Tránh việc lạm dụng cho vay đảo nợ hay cơ cấu lại lại các khoản nợ mà khách hàng không có khả năng cải thiện tình trạng khó khăn của sản xuất cũng như tình hình tài chính hiện tại.
Các ngân hàng cần thống kê và phân loại nợ xấu theo các tiêu thức như nguyên nhân phát sinh, phương thức đảm đảm bảo, đối tượng khách hàng có nợ xấu tại ngân hàng, khả năng thu hồi.. Trên cơ sở đó ngân hàng có thể đánh giá nợ xấu một cách toàn diện để có những biện pháp xử lý phù hợp.
Thứ hai: Tích cực xử lý nợ xấu bằng các biện pháp phù hợp.