Tăng Cường Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng.


Biện pháp 1: Bán nợ cho công ty quản lý tài sản của TCTD (VAMC).

Việc xử lý nợ xấu của các NHTMCP hiện nay có thể thực hiện theo hai nhóm biện pháp là bán nợ và tự xử lý. Trong đó, biện pháp trước tiên có tính khả thi đối với cả các NHTMCP có quy mô vốn lớn hay nhỏ hiện nay là bán nợ cho công ty quản lý tài sản của TCTD (VAMC).Những lý do mà các NHTMCP nên lựa chọn phương án bán nợ cho VAMC để xử lý nợ xấu ở thời điểm này là:

Một là: Trong bối cảnh khó khăn, không phải ngân hàng nào cũng có đủ nguồn lực để trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu, nhất là những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao như NHTMCP An Bình, Bảo Việt , Nam Việt, Phương nam, Đông Á, Oceanbank, trong khi chủ trương yêu cầu xử lý nợ xấu của NHNN không cho phép kéo dài thời gian. Mặc dù về mặt bản chất, bán nợ xấu không có nghĩa là ngân hàng đã “xong nợ”, vì các ngân hàng vẫn phải có trách nhiệm thu hồi và trích lập dự phòng rủi ro. Nhưng khi bán nợ, ngân hàng có thể kéo dài thời gian trích lập mà không gây tình trạng quá sức cho ngân hàng.

Hai là: Sau khi bán nợ, bảng tổng kết tài sản của ngân hàng sẽ “sạch hơn”, điều này sẽ góp phần làm tăng giá trị hình ảnh của ngân hàng đối với các nhà đầu tư, cũng như các ngân hàng có thể tập trung hơn vào việc phát triển các hoạt động kinh doanh của mình.

Ba là: Tổ chức tín dụng có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành để tái cấp vốn và tham gia thị trường mở nhằm tăng thanh khoản cho ngân hàng.

Và cuối cùng khi bán nợ cho VAMC, ngân hàng sẽ được hỗ trợ tích cực về pháp lý và nguồn lực trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu nợ.Hơn nữa, theo chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 27/1/2015, các NHTM phải đưa nợ xấu xuống dưới 3% vào cuối năm 2015 và hoàn thành chỉ tiêu giải quyết ít nhất 60% nợ xấu và phải bán được 75% số nợ dự kiến bán cho VAMC cả năm 2015 vào trước ngày 30/6/2015

Để thực hiện bán nợ, các ngân hàng thống kê nợ xấu đủ điều kiện bán cho VAMC, thu thập thông tin về nợ xấu, về khách hàng vay của các khoản nợ mà ngân hàng đề nghị VAMC mua. Trên cơ sở hướng dẫn của công ty quản lý tài sản của các TCTD, các NHTMCP nhanh chóng hoàn tất thủ tục để làm đề nghị mua nợ.


Biện pháp 2: Các NHTMCP nỗ lực tự xử lý nợ xấu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Bên cạnh biện pháp mang tính tình thế là bán nợ cho VAMC, nhóm biện pháp mà các NHTMCP phải tích cực triển khai hiện nay là xử lý nợ xấu từ nội lực ngân hàng, bao gồm:

Một là :Làm tốt công tác phân loại nợ và tăng cường trích lập dự phòng rủi ro Đây là biện pháp hàng đầu mà các NHTMCP lựa chọn khi xử lý nợ xấu, kể

Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 23

cả những khoản nợ đã bán cho VAMC. Mặc dù, trích lập dự phòng rủi ro sẽ sẽ làm lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút, nhưng với tình trạng nợ xấu ngày “càng xấu”và “phình to”như hiện nay thì không có lựa chọn nào tốt hơn cho ngân hàng là phải xử lý dứt điểm được “khối nợ xấu khổng lồ”này. Khả năng trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu phụ thuộc vào tình trạng tài chính hiện tại của mỗi ngân hàng, do vậy với các ngân hàng ở nhóm lớn thì đây là biện pháp có tính khả thi cao hơn cả.

Để bù đắp tình trạng tăng chi phí do tăng mức trích lập dự phòng rủi ro, các NHTMCP nên có những biện pháp tiết giảm chi phí như chi phí quản lý, chi phí tiền lương. Tinh giảm bộ máy quản lý hay cắt giảm nhân sự trên cơ sở xem xét lại việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch hay cải tiến quy trình tác nghiệp để tăng hiệu suất sử dụng lao động là những giải pháp có hiệu quả áp dụng cho các NHTMCP hiện nay.

Yêu cầu đặt ra đối với công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các NHTMCP là:

Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phải tuân thủ theo đúng quy định, hướng dẫn của NHNN. Bởi nội dung này không chỉ là vấn đề ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của mỗi ngân hàng mà còn là an toàn hoạt động của hệ thống. Vì vậy, các NHTMCP phải có trách nhiệm tuân thủ theo các quy định của pháp luật.

Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phải phản ánh đầy đủ mức độ rủi ro của ngân hàng. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải hoàn thiện được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trên cơ sở đó để tạo nền tảng cho công tác phân loại nợ một cách chuẩn xác.


Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phải được coi là một biện pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng chứ không chỉ đơn thuần là một thủ tục trong quy trình cho vay của ngân hàng.

Để thực hiện tốt công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, các NHTMCP cần chú ý hai vấn đề như sau:

Hoàn thiện và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Một trong những yếu tố tiên quyết giúp ngân hàng thực hiện tốt công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro là phải có được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải có tính tin cậy, đảm bảo phản ánh chính xác tình trạng của khách hàng. Chất lượng của một khoản nợ không chỉ biểu hiện ở tuổi của các khoản nợ mà nó phụ thuộc nhiều tình trạng của chủ nợ, nhất là trong điều kiện nhiều ngân hàng hiện nay đã thực hiện việc phân loại nợ theo yếu tố định tính. Vì vậy, các ngân hàng cần thường xuyên đánh giá, rà xoát lại hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Xem xét các chỉ tiêu trên cơ sở về số liệu tính toán, mức chuẩn điểm và trọng số của mỗi tiêu chí đánh giá. Định kỳ, ngân hàng cần thực hiện “phép thử” trên cơ sở chọn mẫu một số khách hàng để đánh giá mức độ chuẩn xác của hệ thống chấm điểm. Để thực hiện công việc này, cần có một bộ phận độc lập nằm tại hội sở chính của ngân hàng để có trách nhiệm tổng hợp ý kiến phản hồi từ những bộ phận sử dụng, phân tích, đánh giá nhằm có ý kiến đề xuất với các cấp quản lý như hội đồng quản trị, ban giám đốc.

Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin để phục vụ cho công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.

Vấn đề thu thập và lưu trữ những thông tin khách hàng để ngân hàng có những căn cứ đánh giá chính xác khách hàng, tạo cơ sở cho công tác phân loại nợ cần có những hỗ trợ bởi yếu tố công nghệ thông tin.Nhất là tới đây, khi tất cả các ngân hàng phải thực hiện việc phân loại nợ theo thông tư 02/2013/QĐ- NHNN, thì việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thông qua trung tâm thông tin tín dụng NHNN sẽ trở thành yếu tố bắt buộc. Thực tế, hiện nay tất cả các NHTMCP cũng đều tự động hóa công tác phân loại nợ dựa trên hệ thống công nghệ thông tin trang bị. Công nghệ thông tin không


chỉ giúp ngân hàng lưu trữ đầy đủ và có tính hệ thống những nguồn dữ liệu của khách hàng, mà còn giúp ngân hàng có được những thông tin bên ngoài như thị trường; Chính sách kinh tế vĩ mô…để trên cơ sở đó ngân hàng lượng định chính xác những rủi ro tiềm ẩn và có những biện pháp đối phó phù hợp.

Hai là:Thực hiện các biện pháp cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trước mắt.

Với vai trò đồng hành cùng với các doanh nghiệp, trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, các ngân hàng có thể xem xét những giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp có cơ hội vực lại hoạt động của mình.

Cơ cấu lại nợ: Với những doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh khả thi và được đánh giá là có khả năng trả nợ theo phương án cơ cấu lại thì ngân hàng có thể xem xét cho phép cơ cấu lại nợ. Biện pháp này giúp các doanh nghiệp thu xếp được nguồn trả nợ do những yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền trả nợ.

Tiếp tục hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi. Trên cơ sở rà xoát, đánh giá, các ngân hàng có thể xem xét thực hiện chính sách tín dụng “cởi mở”với những doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng trong lịch sử, có phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi để khắc phục những khó khăn hiện tại. Biện pháp này nhằm vào hai đích: Một là giúp các doanh nghiệp hồi phục để có cơ hội trả nợ cho ngân hàng; Hai là thực hiện có hiệu quả chiến lược khách hàng của ngân hàng.

Ba là: Hoán đổi nợ thành vốn góp của ngân hàng trong các doanh nghiệp.

Sau những nỗ lực thu hồi vốn, caí phao mà nhiều ngân hàng trông chờ là tài sản đảm bảo cho những khoản vay.Tuy nhiên, tình trạng đóng băng và giảm giá của thị trường bất động sản khiến cho ngân hàng khó có thể thu hồi các khoản nợ của mình. Một trong những biện pháp mà ngân hàng có thể sử dụng để có cơ hội lấy lại được nợ là trên cơ sở định giá lại doanh nghiệp, ngân hàng sẽ dùng nợ mà doanh nghiệp đang còn nợ để mua lại chính doanh nghiệp đó.Dù là một biện pháp có thể sử dụng nhưng các ngân hàng cũng phải hết sức thận trọng để không làm gia tăng tổn thất cho ngân hàng. Khi thực hiện các biện pháp này, ngân hàng cần cân nhắc thận trọng đảm bảo các quy định về giới hạn góp vốn mua cổ phần theo quy định của pháp luật, tránh đầu tư dàn trải vào lĩnh vực phi ngân hàng. Hơn nữa, việc xử lý nợ xấu theo phương thức này còn phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của các doanh


nghiệp, phụ thuộc vào trình độ của cán bộ ngân hàng có nắm rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không? Do vậy, việc lựa chọn giải pháp này để xử lý nợ xấu phải song hành với những biện pháp tái cấu trúc có hiệu quả để vực lại hoạt động của doanh nghiệp,hoặc ngân hàng tìm được những đối tác để bán lại “phần doanh nghiệp”đang nắm giữ để thu hồi vốn.

Ngoài hai nhóm biện pháp như trên thì một trong những biện pháp có tính đặc thù xử lý nợ xấu đối với các NHTMCP hiện nay là mua bán và sát nhập (M&A) giữa các ngân hàng. Bởi thực tế hiện nay, một số các NHTMCP ở nhóm nhỏ và vừa có quy mô nợ xấu lớn vượt quá khả năng xử lý từ nội lực của ngân hàng, nên thông qua M&A, nguồn lực tài chính để xử lý nợ xấu sẽ gia tăng, đó là chưa kể đến hiệu ứng kỹ thuật giúp giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ngoài những NHTMCP phải tiến hành M&A theo yêu cầu bắt buộc của NHNN, các NHTMCP ở nhóm vừa và nhỏ cần tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm các “đối tác” phù hợp để hợp nhất. Để tránh những bất lợi trong việc hợp nhất và sát nhập do thiếu hiểu biết, ngân hàng cần chủ động sử dụng dịch vụ của các công ty tư vấn, môi giới trong xác định tín nhiệm và định giá; thẩm định giá trị và hồ sơ pháp lý, thông tin về thị trường và đối tác.

3. 2.4.2. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng.

Thứ nhất: Đa dạng hóa cơ cấu danh mục cho vay nhằm phân tán rủi ro.

Kinh doanh ngân hàng vẫn luôn phải tuân chỉ nguyên tắc “Không bỏ quá nhiều trứng vào một giỏ”. Mặc dù mỗi ngân hàng đều có thị trường khách hàng truyền thống, nhưng điều đó không có nghĩa là các ngân hàng quá tập trung dư nợ tín dụng vào đối tượng khách hàng này. Khi xây dựng chính sách cho vay, ngân hàng phải tuân thủ các quy định về giới hạn cho vay theo luật cũng như thông tư về việc đảm bảo an toàn trong cho vay của NHTM.

Trên cơ sở phân tích thị trường khách hàng, ngân hàng cần có sự uyển chuyển trong việc duy trì cơ cấu danh mục cho vay. Để làm được điều này, ngân hàng cần tiến hành phân tích, dự báo ngành nhằm phổ biến, triển khai trong toàn hệ thống.

Thứ hai: Thay đổi tư duy trong thẩm định cho vay.

Tình trạng chung ở nhiều ngân hàng hiện nay khi cho vay là dựa trên tài sản đảm bảo và kết quả lợi nhuận hoạt động của khách hàng. Mặc dù đây không phải là một quan điểm sai nhưng không hoàn toàn là đúng. Mục đích chính của tài sản đảm


bảo là giảm tổn thất tín dụng trong tình huống xảy ra rủi ro, chứ không phải là là yếu tố quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, khi đưa ra quyết định cho vay ngân hàng không nên đưa yêu cầu tài sản đảm bảo tiền vay lên hàng đầu, điều này sẽ dẫn đến một sai lầm thường thấy của ngân hàng là xem nhẹ tính khả thi và hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng cho vay cũng như thu nợ bằng tiền, vì vậy các ngân hàng cần nhanh chóng xây dựng và triển khai chính sách cho vay dựa trên dòng tiền. Đối với những khách hàng có phân hạng tín dụng tốt, phương án sử dụng vốn vay được đánh giá là hiệu quả và có tính khả thi, thì phương pháp cho vay dựa trên dòng tiền thực sự là một biện pháp thu hút cũng như tháo gỡ nút thắt cản trở trong việc tiếp cận vốn ngân hàng.

Thứ ba: Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Thông qua xếp hạng tín dụng của khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá cơ bản về mức độ rủi ro của khách hàng, sàng lọc được khách hàng tốt để phục vụ việc ra quyết định cấp tín dụng. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể tập trung vào các đặc điểm riêng của khách hàng, để có biện pháp quản lý tín dụng hiệu quả. Vì vậy, các ngân hàng cần rà soát để hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trên cơ sở khung pháp lý tiếp cận theo tinh thần hiệp ước Basel 2 mà NHNN đã ban hành (Thông tư 02/2013/TT-NHNN), các NHTMCP sẽ hoàn thiện từ mô hình tổ chức, phương pháp xếp hạng tín dụng cũng như xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu đồng bộ phục vụ cho hệ thống xếp hạng tín dụng.

3.2.5. Tăng cường khả năng thanh khoản cho các ngân hàng thương mại cổ phần

Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh dựa trên niềm tin, vì vậy thanh khoản là yếu tố tác động trực tiếp đến sự sống còn của một NHTM. Trong vòng năm năm trở lại đây, thị trường đã chứng kiến tình trạng suy yếu về khả năng thanh khoản ở nhiều NHTMCP, thậm chí có những ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ vì thanh khoản kém. Bên cạnh việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu cũng như hạn chế và xử lý nợ xấu là những giải pháp được coi là trọng tâm để tăng cường khả năng thanh khoản, các NHTMCP cần chú trọng những vấn đề sau:


- Tuân thủ quy định của NHNN về các tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả như tỷ lệ dự trữ thanh khoản, tỷ lệ khả năng chi trả trong vòng 30 ngày; tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn..

- Ngân hàng phải xây dựng một chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản thống nhất toàn hệ thống. Trong chiến lược này, các ngân hàng cần xây dựng mục tiêu, chính sách cụ thể về quản lý thanh khoản.

- Hoàn thiện công tác tổ chức quản trị thanh khoản: Ngân hàng phải thành lập một bộ phận quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có”(từ cấp phòng hoặc tương đương trở lên), để theo dõi và quản lý khả năng chi trả hàng ngày. Bộ phận quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có”do Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) được ủy quyền phụ trách.

- Các ngân hàng xây dựng và ban hành quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả với các loại tiền như VND, USD, EURO, GBP. Quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả phải được Hội đồng quản trị thông qua và phải được rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung tối thiểu 6 tháng một lần hoặc theo yêu cầu của NHNN (Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng).Các quy định này mang tính đặc thù tùy theo thực tế của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, những yêu cầu cần có của chính sách là:

Phân cấp, ủy quyền, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các bộ phận, cá nhân có liên quan trong việc quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có”và việc bảo đảm duy trì tỷ lệ khả năng chi trả.

Quy định quy trình thống kê, xây dựng, quản lý theo dõi kỳ hạn đối với tài sản “Nợ”và tài sản “Có”. Hệ thống đo lường, đánh giá và báo cáo về khả năng chi trả, khả năng thanh khoản và hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả và các giải pháp xử lý.

Xây dựng các kịch bản có thể xảy ra đối với vấn đề thanh khoản của Ngân hàng. Đặc biệt tình huống khi cung thanh khoản của các NHTM bị sụt giảm mạnh, trong khi cầu thanh khoản tăng cao. Từ những kịch bản, Ngân hàng đưa ra các phương án xử lý, bảo đảm khả năng chi trả, khả năng thanh khoản trong trường hợp xảy ra thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả, cũng như trong trường hợp khủng hoảng về thanh khoản.


Kế hoạch nắm giữ các giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho Ngân hàng khi cần.

- Tăng cường công tác huy động vốn, tạo nguồn cung thanh khoản vững chắc. Nếu xét trên góc độ tổng thể, nguồn vốn huy động là yếu tố cơ sở cho việc mở rộng quy mô cho vay và đầu tư của NHTM. Còn đối với góc độ thanh khoản, vốn huy động được coi là nguồn cung thanh khoản chủ yếu của NHTM. Chính vì vậy, huy động vốn luôn là vấn đề cần được quan tâm đối với các ngân hàng. Trước thực trạng huy động vốn của các NHTMCP trong thời gian vừa qua, tới đây để nâng cao năng lực thanh khoản, công tác huy động vốn của ngân hàng cần hoàn thiện theo hướng sau đây:

Đảm bảo sự phù hợp giữa quy mô, tốc độ tăng trưởng huy động vốn và quy mô, tốc độ tăng trưởng cho vay. Mục tiêu huy động vốn phải nhằm mục tiêu trước hết là thỏa mãn nhu cầu đầu tư và cho vay của ngân hàng, vì vậy các ngân hàng phải có những biện pháp phù hợp khai thác nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng.

Đảm bảo sự cân đối giữa cơ cấu vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn như cân xứng về kỳ hạn, về sự biến động của mỗi nguồn vốn huy động và “tính lỏng”tài sản có.

Duy trì sự ổn định về tốc độ tăng trưởng huy động vốn. Tránh tình trạng bất ổn định về tăng trưởng vốn huy động có thể gây nên khó khăn cho việc dự báo và quản lý trạng thái thanh khoản của các ngân hàng.

Hoàn thiện công tác quản lý vốn nội bộ trong mỗi hệ thống ngân hàng trên cơ sở mô hình quản lý vốn tập trung. Với mô hình này không những chỉ kích thích các chi nhánh năng động hơn trong việc huy động vốn, mà còn giúp hội sở Ngân hàng có thể quản lý nguồn vốn huy động trong toàn hệ thống để từ đó có những giải pháp kịp thời trong việc quản trị thanh khoản.

Nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp và thận trọng khi sử dụng lãi suất làm công cụ cạnh tranh trong huy động vốn của ngân hàng.

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, công cụ cạnh tranh hiệu quả nhất của các NHTM là cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ cung cấp. Thị trường vốn hoàn hảo sẽ san bằng “giá của vốn”, vì vậy ngân hàng nào có dịch vụ hoàn hảo nhất thì

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí