hưởng “nguy hiểm”đe dọa an toàn hệ thống, trong giai đoạn đầu của quá trình tái cấu trúc, NHNN yêu cầu các TCTD yếu kém xây dựng đề án tái cơ cấu để trình NHNN đánh giá và phê duyệt. Nhằm đảm bảo sự hợp tác của các ngân hàng trong việc thực hiện đề án tái cơ cấu, trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ yêu cầu tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt phải thực hiện các biện pháp bắt buộc như chuyển nhượng vốn góp, vốn cổ phần.Thành viên góp vốn, cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt phải chuyển nhượng vốn góp, cổ phần cho NHNN hoặc tổ chức tín dụng được chỉ định.
Mặt khác,để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém trên cơ sở tham gia của cổ đông ngoại, trường hợp cần thiết NHNN có thể trình thủ tướng phương án nới “room”cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Yêu cầu và giám sát chặt chẽ các NHTM nghiêm túc chấp hành về tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo tinh thần của luật TCTD. Biện pháp này nhằm đạt được hai mục đích; Trước hết là tạo sức ép với các NHTMCP trong việc chủ động tìm kiếm đối tác để hợp nhất nhằm đáp ứng những tỷ lệ đảm bảo an toàn mà nếu “đơn lẻ”thì ngân hàng không thể đủ sức thực hiện; Thứ đến, các NHTMCP phải có lộ trình thực hiện việc đảm bảo tỷ lệ an toàn hoạt động theo chuẩn mực quốc tế để có đủ năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhằm mục đích đến hết 2015, tất cả các NHTMCP phải hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của mình trên sàn chứng khoán, NHNN tiếp tục yêu cầu các chi nhánh tỉnh, thành phố của mình đôn đốc các NHTMCP đặt trụ sở chính trên địa bàn chưa niêm yết cổ phiếu hoàn thiện kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, theo dõi, giám sát việc triển khai kế hoạch niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên địa bàn; kịp thời báo cáo và đề xuất Thống đốc NHNN các biện pháp để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng theo chủ trương nêu tại Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012.
- Ngân hàng Nhà Nước nên tiếp tục giám sát và kiến nghị với Chính Phủ về khung pháp lý hoạt động của VAMC.
Mặc dù nghị định 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 chỉnh sửa một số điều của nghị định 53/2013/NĐ-CP về hoạt động của VAMC và thông tư số 14/2015/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của TT 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty VAMC đã mở ra nhiều thuận lợi cho VAMC trong việc xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, với quy mô nợ xấu khổng lồ mà VAMC đã và đã và sẽ “ôm về”thì vẫn cần hơn nữa những hướng đi rộng hơn cho VAMC để xử lý như quy mô vốn điều lệ hay các quy định pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản đảm bảo…
3.3.1.2. Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, thanh tra giám sát đối với các tổ chức tín dụng
An toàn và lợi nhuận trong kinh doanh là những mục tiêu theo đuổi với các TCTD mà không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau. Chạy theo lợi nhuận cao, khiến nhiều NHTM có thể bị đe dọa đến mức độ an toàn trong hoạt động.Với vai trò quản lý hoạt động của các TCTD, NHNN sẽ tác động đến yếu tố cân bằng giữa lợi nhuận và an toàn hoạt động thông qua vai công tác quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD. Thực tế cho thấy, tình trạng phát triển “nóng”hay quy mô “vốn ảo”tại các NHTMCP đã khiến không ít Ngân hàng phải đối mặt với những hậu quả như nợ xấu gia tăng, lợi nhuận giảm sút, rủi ro thanh khoản đe dọa..Khắc phục vấn đề này, ngoài những nỗ lực của các TCTD, rất cần tăng cường vai trò quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN một cách có hiệu quả hơn nữa. Cụ thể là:
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Ngân Hàng Đặc Biệt Là Quản Trị Rủi Ro Và Quản Trị Điều Hành
- Tăng Cường Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng.
- Đẩy Mạnh Phát Triển Các Hoạt Động Phi Tín Dụng.
- Hoàn Thiện Các Chính Sách Vĩ Mô Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Và Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 27
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 28
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động thanh tra, giám sát: Mặc dù cho đến này, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã được dựa trên nền tảng pháp lý như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 và Luật Các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/201, Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2011. Cùng với đó, Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra và Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về hoạt động thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên khi triển khai công tác thanh tra, nhiều vấn đề bất cập nảy sinh như thiếu hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thanh tra; xử phạt vi phạm hành chính; tình trạng chồng chéo của các quy định pháp lý; thiếu cơ chế phối
hợp thông tin giữa thanh tra ngân hàng và các cơ quan thanh tra Bộ, ngành khác. Đặc biệt, thiếu khung pháp lý phù hợp đối với phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro. Trong thời gian tới để hoàn thiện khung pháp lý cho công tác thanh tra, giám sát,trước hết NHNN cần ban hành Thông tư về quy trình, thủ tục thanh tra và quy trình, thủ tục giám sát Ngân hàng. Tiến đến, NHNN sẽ phải ban hành các quy định cụ thể hướng dẫn thực hiện phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro. Các cơ chế, chính sách quản lý và quy chế an toàn hoạt động Ngân hàng phải được tiếp tục hoàn thiện theo hướng áp dụng các nguyên tắc của Basel II và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Hoàn thiện mô hình tổ chức thanh tra, giám sát: Mô hình tổ chức thanh tra, giám sát Ngân hàng sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo theo nguyên tắc tập trung, thống nhất thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Trước mắt, các đơn vị thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc tổ chức bộ máy của NHNN chi nhánh, chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra, giám sát Ngân hàng và chịu sự quản lý hành chính của NHNN chi nhánh… Về nhiệm vụ, phạm vi và nội dung quản lý, thanh tra, giám sát của đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng phải phù hợp với yêu cầu thống nhất thực hiện các nhiệm vụ cấp, thu hồi một số loại giấy phép; thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa, xử lý rủi ro và vi phạm. Theo đó, đơn vị thanh tra, giám sát là đầu mối thống nhất thực hiện quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động Ngân hàng trên địa bàn.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát thì về lâu dài các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng nên được tổ chức độc lập với NHNN chi nhánh và chịu sự quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Mô hình tổ chức này sẽ phù hợp hơn với yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế. Việc đổi mới mô hình nên được tiến hành thận trọng theo từng bước thích hợp từ thí điểm ở một số tỉnh, thành phố đến áp dụng đồng loạt trên phạm vi toàn quốc.
Hoàn thiện cách thức quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD theo hướng:
Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản cần thiết để đảm bảo cho hệ thống giám sát hoạt động có hiệu quả theo khuyến cáo của ủy ban Basel.
Hạn chế việc quản lý, giám sát ngân hàng bằng các công cụ hành chính, tăng giám sát của thị trường đối với hoạt động ngân hàng để vừa bảo đảm trách
nhiệm của các bên liên quan tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời phối hợp với cơ quan quản lý quản lý, giám sát toàn diện các TCTD. Để tăng cường nguyên tắc thị trường và minh bạch hóa trong hoạt động ngân hàng, góp phần nâng cao trách nhiệm của TCTD với cổ đông, người gửi tiền thì tới đây NHNN phải yêu cầu bắt buộc các NHTMCP phải niêm yết cổ phiếu trên sàn. Đây là cách thức tốt nhất để tăng sự giám sát của đông đảo cổ đông đối với hoạt động của ban lãnh đạo ngân hàng. Mặt khác khi niêm yết cổ phiếu của mình lên sàn, các NHTMCP phải công khai báo cáo tài chính, từ đó giúp các cơ quan quản lý có thể kịp thời nắm bắt mức độ rủi ro ngân hàng.
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát rủi ro: Bên cạnh việc thanh tra tuân thủ để đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật của các TCTD, NHNN nên tăng cường công tác thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Khi thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, Thanh tra NHNN có khả năng đánh giá tốt hơn năng lực quản lý của TCTD, tính chất phức tạp của hoạt động kinh doanh và những rủi ro mà TCTD gặp phải; tập trung tối đa nguồn lực để giải quyết các lĩnh vực có rủi ro cao nhất, làm lành mạnh hoá hoạt động của TCTD, góp phần ổn định hệ thống các TCTD.
Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát, thông kê phù hợp theo hướng có thể đo lường, cảnh báo sớm những rủi ro của các TCTD. Đặc biệt, an toàn hoạt động của ngân hàng không chỉ mang tính độc lập mà có tính hệ thống, vì vậy hệ thống giám sát của NHNN phải kết hợp cả giám sát vi mô và giám sát vĩ mô. NHNN cần hoàn thiện báo cáo giám sát an toàn vĩ mô theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro của hệ thống các TCTD.
Tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, giám sát Ngân hàng.
Về phương pháp giám sát, bên cạnh phương pháp giám sát tại chỗ thì công tác giám sát từ xa có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một trong những yếu tố hàng đầu quyết định đến khả năng giám sát từ xa của NHNN là việc thu thập và xử lý thông tin. Chính vì vậy, NHNN cần nhanh chóng xây dựng hệ thống thông tin phù hợp với yêu cầu giám sát từ xa trên nền tảng công nghệ hiện đại để góp phần thu thập, xử lý thông tin theo yêu cầu của công tác giám sát.
Tăng cường đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát Ngân hàng cả về số lượng và chất lượng.
Vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu quả của thanh tra, giám sát ngân hàng là đội ngũ cán bộ thanh tra. Để đổi mới công tác quản lý, giám sát ngân hàng theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế cần tạo dựng và phát triển được đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng có năng lực, trình độ chuyên môn tốt và đạo đức nghệ nghiệp là vấn đề mà NHNN phải nhanh chóng thực hiện. Từ việc tuyển dụng, tập huấn nghiệp vụ và nâng cao nhận thức đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu phải được thực hiện ngay và mang tính chiến lược trong hoạt động của NHNN.
3.3.1.3. Tăng cường phối kết hợp với các Bộ ngành để có những hỗ trợ với các ngân hàng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp để đạt được mục tiêu xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng.
- NHNN cần chủ động, thường xuyên phối kết hợp với các Bộ, ngành nhằm nắm bắt thông tin về thực tế cũng như định hướng hoạt động của các lĩnh vực. Qua đó giúp các NHTM có thêm những thông tin hữu ích để xây dựng danh mục cho vay phù hợp.
- Phối hợp với Bộ tư pháp và Bộ tài nguyên môi trường triển khai thực hiện tinh thần thông tư 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN về xử lý tài sản bảo đảm theo Nghị định số163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NÐ- CP)ngày 22/02/2012 của Chính phủ. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo của Bộ công an, bộ tư pháp để xử lý dứt điểm các vụ án liên quan đến hoạt động của ngân hàng nhằm giải quyết những vướng mắc, khó khăn của các NHTM xử lý tài sản để thu nợ.
3.3.1.4. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại.
- Đứng trên góc độ an ninh tài chính quốc gia, tái cấu trúc ngân hàng phải đảm bảo yêu cầu an toàn nhất cho các TCTD. Vì vậy, với vai trò “người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế”, NHNN cần có biện pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời đối với các TCTD đang trong quá trình tái cấu trúc thông qua hình thức tái cấp vốn hay nghiệp vụ thị trường mở.
- Điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như công cụ lãi suất, thị trường mở, tỷ giá. Đồng thời phối kết hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Ổn định kinh tế vĩ mô được coi là vấn đề mấu chốt để giúp các doanh nghiệp phục hồi sau những khó khăn của cuộc khủng hoảng. Và chính sự hồi sinh của doanh nghiệp mới góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh của ngân hàng.
3.3.1.5. Ngân hàng nhà nước phải ban hành lộ trình đối với các ngân hàng thương mại về việc xây dựng quy trình quản lý rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong điều kiện tự do hóa tài chính trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng sâu rộng, các NHTM phải tham gia vào sân chơi có tính bình đẳng với mức độ rủi ro ngày càng gia tăng. Để đảm bảo năng lực tài chính vững mạnh, yêu cầu đặt ra hiện nay là phải xây dựng được hệ thống quản lý rủi ro đáp ứng được yêu cầu quản trị ngân hàng hiện đại. Hệ thống quản lý rủi ro này phải hướng vào các chuẩn mực quốc tế, mà cụ thể trong điều kiện ở Việt Nam là những trụ cột của Basel 2. Việc đáp ứng về yêu cầu đảm bảo an toàn tuân thủ theo Basel 2 cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đã xây dựng được một hệ thống quản lý rủi ro tiên tiến. Mặc dù thực tế hiện nay, các NHTM đều đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro của mình, nhưng với thực trạng bộc lộ về năng lực tài chính trong thời gian vừa qua cho thấy tồn tại những “lỗ hổng”khá nguy hiểm về quản lý rủi ro của ngân hàng. Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro là công việc tiến hành của mỗi NHTM, tuy nhiên với vai trò cầm trịch, NHNN cần khởi động trên cơ sở xác định lộ trình triển khai, xây dựng quy định hướng dẫn và đánh giá việc tuân thủ trong Basel 2. Vai trò này của NHNN có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi lẽ không có một tiêu chuẩn Basel II áp dụng chung cho tất cả các nước. Basel II đưa ra các chỉ dẫn, phương pháp tính toán, còn dữ liệu, đặc thù về con người, khẩu vị rủi ro của ngân hàng và danh mục tài sản mà các ngân hàng đang nắm giữ lại rất khác nhau do chi phối bởi thực tế của mỗi quốc gia. Mỗi nước sẽ có các tùy chỉnh riêng cho phù hợp với đặc thù của quốc gia.
3.3.1.6. Nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng nhà nước.
Nâng cao năng lực tài chính của các NHTM không chỉ phụ thuộc vào năng lực quản trị điều hành của chính các ngân hàng mà còn phụ thuộc vào năng lực hoạt
động của NHNN. Bởi để có thể làm tốt vai trò “Điều tiết- dẫn dắt”của một cơ quan quản lý đòi hỏi NHNN cần có “đủ tầm”để thực hiện. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, cùng với mô hình tổ chức phù hợp dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại để thu thập và xử lý thông tin, là những điều kiện cần có để NHNN nâng cao năng lực xây dựng chính sách, điều hành và dự báo của mình.
3.3.2. Kiến nghị đối với Chính Phủ và cơ quan quản lý nhà nước
3.3.2.1. Tiếp tục triển khai việc thực hiện các nghị quyết của Chính phủ đã ban hành để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, khơi thông thị trường.
Để nâng cao năng lực tài chính của các NHTM, vấn đề trước mắt là phải giải quyết những khó khăn cho các NHTM do ảnh hưởng của yếu tố thị trường. Do vậy, chính phủ cần tiếp tục triển khai những giải pháp đã được đề cập tại các nghị quyết đã được ban hành như nghị quyết Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; Nghị quyết số 29/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân; nghị quyết 02/NQ- CP ngày 7/1/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu…Nếu thực hiện tốt yêu cầu của nghị quyết trên, những khó khăn của các doanh nghiệp sẽ dần được đẩy lùi, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng, tào đà phát triển cho các Ngân hàng sau giai đoạn tái cấu trúc.
3.3.2.2. Chính phủ cũng như bộ ngành cần có những tháo gỡ khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo
Với những nỗ lực để giải quyết nợ xấu, căn cứ Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 15/01/2013 của Chính phủ và Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 27/6/2013, Thống đốc NHNN quyết định thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) nhằm xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế. Sự ra đời của tổ chức này được coi là một giải pháp cần thiết để “thông mạch”cho các TCTD. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc nhất hiện nay của VAMC đó là những cản trở về mặt pháp lý trong việc mua - bán nợ xấu, đặc biệt là liên quan tài sản thế chấp là bất động sản. Trong một bối cảnh mà thị trường bất động sản vẫn còn đóng băng, thì cách thức xử lý như phát mại hay
hóa giá tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp không có khả năng phục hồi là vấn đề không dễ với VAMC. Ðiều này đòi hỏi bên cạnh nỗ lực tìm hướng giải quyết của VAMC cần có thêm sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành nhằm hoàn thiện thủ tục pháp lý cho việc bán đấu giá tài sản. Mặc dù, với nội dung của nghị định 17/2010/NĐ- CP về bán đấu giá tài sản và một loạt các văn bản liên quan đã được triển khai. Nhưng với tính chất đặc thù của việc bán đấu giá tài sản của VAMC, Bộ tư pháp cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc bán đấu giá tài sản của VAMC nhằm tạo điều kiện xử lý nhanh chóng nợ xấu đã mua.
3.3.2.3. Nâng cao vai trò điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Với yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng thì vai trò của Chính phủ hết sức quan trọng. Để làm được điều này, trước hết cần phải đổi mới tư duy điều hành kinh tế vĩ mô theo hướng tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho doanh nghiệp. Tư duy phải có tính dài hạn trên cơ sở lợi ích quốc gia, tránh tư duy lợi ích nhóm, ỷ lại dẫn đến tình trạng thiếu sự phối hợp, giám sát giữa trung ương và địa phương.
Tăng cường phối kết hợp giữa điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam và chính sách tài khóa của Bộ tài chính để ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát thúc đẩy nền kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả.
Để nâng cao vai trò của Nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ mô cần có sự tăng cường giám sát nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đảm bảo yêu cầu minh bạch, cần tiến hành kiểm toán toàn bộ các tập đoàn kinh tế nhà nước do các công ty kiểm toán và các chuyên gia quốc tế thực hiện. Tiến tới, cần cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần phải được tiến hành khẩn trương, quyết liệt, quy định rõ trách nhiệm của các bộ ngành trong việc chỉ đạo và giám sát thực hiện. Đồng thời để giúp các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thoái vốn tại các NHTM theo tinh thần của nghị quyết 15/NQ- CP ngày 6/3/2014, Chính phủ cần giao cho NHNN xây dựng phương án “giá mua”, cách thức tiếp nhận điều hành với phần vốn nhà nước nắm giữ.