hỏi nghiên cứu đề ra nhằm thực hiện mục tiêu chính của luận án. Đây cũng là cơ sở vững chắc để luận án có thể đề xuất hay gợi ý các chính sách cho các nhà quản trị ngân hàng, các nhà hoạch định chính sách và các bên có liên quan khác nhằm xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường ổn định tài chính của NHTM VN khi gia nhập CPTPP – một hiệp định toàn diện và tiếp bộ trong xu thế hiện đại.
Nghiên cứu đã đạt được phần lớn các mục tiêu ban đầu đặt ra. Cụ thể:
- Thực trạng hoạt động của các NHTM VN so với các nước trong CPTPP giai đoạn 2010
– 2018: luận án đã tiến hành thu thập, tính toán và tổng hợp dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính hợp nhất để làm căn cứ đánh giá thực trạng hoạt động của 31 NHTM VN (phụ lục 1). Mặt khác, luận án sử dụng một số yếu tố vĩ mô đặc trưng cho tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng 11 nước thành viên thu thập được IMF, WB nhằm so sánh, đánh giá và có cái nhìn tổng quan về từng thành viên trong cộng đồng CPTPP.
- Đo lường NLCT và tác động của các yếu tố đến NLCT của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP (Mô hình MH1): Luận án đã tiến hành hồi quy các yếu tố Quy mô vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, Logarit tự nhiên của tổng tài sản, Tốc độ tăng của tổng tài sản, Tỷ lệ Cho vay/Tổng tài sản, Tỷ lệ Vốn huy động/Tổng tài sản, Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, Yếu tố đo lường sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tác động đến năng lực cạnh tranh ngân hàng. Kết quả ước lượng của mô hình đều cho thấy có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố trên trong mối tương quan với năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Điều này đúng với phần lớn giả thiết kỳ vọng ban đầu và cũng phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trước đó.
- Đo lường mức độ ổn định và tác động của các yếu tố đến mức độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP (Mô hình MH2): Luận án đã tiến hành hồi quy các yếu tố Logarit tự nhiên của tổng tài sản, Tốc độ tăng của tổng tài sản, Tỷ lệ Cho vay/Tổng tài sản, Tỷ lệ Vốn huy động/Tổng tài sản, Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, Yếu tố đo lường sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tác động đến ổn định ngân hàng. Trong mô hình nghiên cứu, các yếu tố cạnh tranh và các biến kiểm soát mang đặc điểm riêng của ngân hàng với các biến phản ánh mức độ ổn định của ngân hàng. Kết quả của mô hình cho thấy các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê đáng tin cậy. Điều đó phản ánh rằng chiến lược cạnh tranh của ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến duy trì ổn định ngân hàng ở các NHTM Việt Nam.
Điều này đúng với phần lớn giả thiết kỳ vọng ban đầu và cũng phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trước.
- Đo lường tác động của NLCT đến mức độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP (Mô hình MH3): Mô hình nghiên cứu được xây dựng các yếu tố như cạnh tranh (thông qua biến Lerner) và các biến kiểm soát mang đặc điểm riêng của ngân hàng với các biến phản ánh mức độ ổn định của ngân hàng. Kết quả của mô hình cho thấy các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê đáng tin cậy, sự gia tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng có tác động tích cực đến ổn định ngân hàng. Điều đó phản ánh rằng chiến lược cạnh tranh của ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến duy trì ổn định ngân hàng ở các NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu ủng hộ quan điểm “cạnh tranh – dễ bất ổn”. Điều này đúng với kỳ vọng ban đầu và cũng phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trước của Berger và cộng sự (2009) và Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự (2018) đã tìm ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Tốc Độ Tăng Trưởng Tín Dụng Của Toàn Hệ Thống Giai Đoạn 2013 - 2018
- Cơ Hội Gia Tăng Năng Lực Cạnh Tranh Và Tăng Cường Ổn Định Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Khi Gia Nhập Cptpp
- Những Thách Thức Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Việc Gia Tăng Vị Thế Cạnh Tranh Và Ổn Định Ngân Hàng Khi Gia Nhập Cptpp
- Kịp Thời Ứng Phó Với Những Biến Động Từ Nền Kinh Tế Vĩ Mô Trong Khối Cptpp.
- Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 28
- Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 29
Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.
- Những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho các NHTM VN trong gia tăng NLCT, mức độ ổn định ngân hàng trong bối cảnh tham gia CPTPP: Dựa vào kết quả tổng hợp từ nghiên cứu thực trạng hoạt động của NHTM VN, so sánh trong cộng đồng CPTPP và kết quả đo lường thực nghiệm về năng lực cạnh tranh, ổn định ngân hàng của các NHTM VN, luận án đã rút ra một số triển vọng cũng như áp lực cho cạnh tranh, ổn định ngân hàng trong bối cảnh hội nhập. Đây là cơ sở tăng tính vững cho các lập luận, đánh giá, đề xuất hàm ý chính sách cho các nhà quản trị nói chung và các NHTM VN nói riêng để tận dụng cơ hội, kịp thời ứng phó thách thức nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững ổn định trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
- Hàm ý chính sách: Dựa vào mục tiêu và phạm vi nội dung nghiên cứu ban đầu và các kết quả đạt được từ 5 mục tiêu cụ thể, luận án cũng đề xuất các hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
5.2. Hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP
Các NHTM VN cần xây dựng và triển khai các chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững và gia tăng mức độ ổn định, phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu đồng thời tận dụng cơ hội và ứng phó với các thách thức của CPTPP một cách hiệu quả. Theo đó, ở cấp
chính phủ, cần thành lập một ban chỉ đạo liên ngành, tập hợp quan chức và chuyên gia giỏi từ các bộ, ngành, đại diện doanh nghiệp chủ chốt để phối hợp xây dựng chính sách, triển khai một chiến lược tổng thể đưa Việt Nam thực hiện CPTPP thành công trong những năm tới.
Để tận dụng hiệu quả CPTPP, khắc phục tính không tương thích về trình độ phát triển, kinh doanh, nâng cao NLCT và tăng cường ổn định trong bối cảnh hội nhập CPTPP, các NHTM Việt Nam cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp sau:
5.2.1. Nâng cao năng lực tài chính
Từ kết quả đo lường thực nghiệm NCCT và mức độ ổn định ngân hàng của 31 NHTM VN trong giai đoạn 2010 – 2018 cho thấy: các yếu tố như Quy mô vốn chủ sở hữu (ETA), Quy mô ngân hàng (B_SIZE), Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản (GroTA) có tác động tích cực đến NLCT và mức độ ổn định của các ngân hàng.
Tuy nhiên khi xem xét trong mối quan hệ tác động của NLCT đến ổn định ngân hàng thì kết quả cho thấy Quy mô ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tổng tài sản gia tăng sẽ làm giảm mức độ ổn định của ngân hàng. Điều này đặt ra câu hỏi cho các nhà quản trị ngân hàng và các cơ quan quản lý liệu rằng tài sản có gia tăng có thật sự mang lại hiệu quả kinh tế, tăng NLCT và ổn định ngân hàng hay không. Để tìm ra đáp án cho vấn đề này, buộc các nhà quản trị phải có những biện pháp đánh giá chính xác hơn nữa chất lượng của tài sản có, hiệu quả sử dụng vốn vay cũng như VCSH. Cụ thể là xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng trên tất cả các lĩnh vực, tìm hiểu nguyên nhân tăng tài sản là đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay mục tiêu sinh lời. Trong điều kiện kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn suốt thời gian qua, việc tăng tài sản phục vụ cho thanh khoản là cần thiết. Tuy nhiên về lâu dài đây không phải là dấu hiệu tốt cho ngân hàng.
Quy mô tín dụng đại diện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Kết quả hồi quy cho thấy Quy mô tín dụng (LTA) tăng có tác động tích cực đến NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN. Tuy nhiên, liên hệ thực tế cho thấy hầu hết các ngân hàng đều có khoản nợ xấu khó thu hồi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh tiền tệ và hệ thống tài chính trong nước. Các NHTM cho vay nhiều hơn nhưng rủi ro mất vốn cũng xuất hiện đi kèm làm giảm chất lượng các khoản vay. Mặc dù hoạt động cho vay vừa mang lại thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng gây tổn thất nghiêm trọng khi rủi ro phát sinh, từ đó ảnh hưởng đến ổn định tài chính cho
ngân hàng. Do đó, ngân hàng cần xem xét lại chất lượng tín dụng của các khoản vay. Ngoài ra, các nhà quản lý, điều hành ngân hàng cũng cần phải xúc tiến công tác thúc đẩy, hỗ trợ các NHTM xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa hệ thống tài chính để tránh gây tổn thương cho hệ thống ngân hàng. Từ đó, tạo điều kiện phục hồi sức mạnh, giúp cho thị trường tài chính trở lại hoạt động sôi nổi như trước, thật sự phát huy là kênh truyền dẫn vốn chủ lực cho nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao năng lực tài chính, NHTM Việt Nam cần giải quyết trước mắt 3 vấn đề chính là xử lý nợ xấu, tăng vốn tự có quy mô tín dụng.
- Tiếp tục xử lý nợ xấu của các NHTM Việt Nam
Vấn đề nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến vị thế cạnh tranh cũng như khả năng ổn định trước áp lực thị trường của Việt Nam nói chung và các NHTM nói riêng. Nhiều nhận định, hàm ý chính sách, giải pháp được đề cập và vận dụng thực tế để khắc phục vấn đề này, bước đầu đã thu được nhiều kết quả khả quan, nợ xấu đã giảm. Tuy nhiên, đây là vấn đề cần được kiểm soát một cách thường xuyên, lâu dài và hiệu quả. Các giải pháp đã và đang được thực hiện là: hỗ trợ và khôi phục thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Sáp nhập hoặc loại bỏ các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém trong hệ thống ngân hàng. Song song với hàng loạt biện pháp trên, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng phải khai báo đầy đủ, nghiêm túc, chính xác và chặt chẽ các khoản nợ xấu. NHTM buộc phải trích lập dự phòng với các mức quy định cụ thể.
Giải quyết nợ xấu không phải là một việc riêng của NHNN và hệ thống NHTM. Đây là việc liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi sự tham gia và trách nhiệm của toàn bộ các cơ quan nhà nước khác, bao gồm cả Chính phủ và Quốc hội, cùng với hệ thống doanh nghiệp nói chung… Đồng thời, đây cũng là là quá trình huy động nguồn lực từ bên ngoài hệ thống ngân hàng để giúp hệ thống lấy lại cân bằng, xử lý nợ xấu, và phục hồi chức năng trung gian tài chính. Một số giải pháp có thể vận dụng linh hoạt vào đặc điểm riêng của từng ngân hàng như: Thứ nhất, mỗi ngân hàng cần chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu trong điều kiện cho phép và phù hợp với tình hình thực tế của chính ngân hàng đó, có thể chấp nhận giảm lợi nhuận. Thứ hai, các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn này và xử lý linh hoạt để duy trì và thúc đẩy hiệu quả hoạt động. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ
nợ xấu. Thứ ba, với xu thế mở rộng quan hệ hợp tác để phát triển thị trường, đặc biệt thị trường quốc tế, việc gia nhập của thị trường ngoài nước vào Việt Nam đang là làn sóng mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập. Các ngân hàng nước ngoài có vốn lớn, cơ sở vật chất và trình độ khoa học công nghệ, quản lý chuyên nghiệp sẽ là cơ hội tốt cho ngân hàng trong nước trong việc gia tăng tiềm lực tài chính, vì vậy các ngân hàng có thể xem xét việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Thứ tư, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng trong nước hoặc ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính và kiểm soát tốt từ phía Ngân hàng Nhà nước. Thứ năm, giảm hoặc miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…), các thủ tục không cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ …
- Tăng vốn tự có của các NHTM Việt Nam
Đảm bảo an toàn vốn là một trong ba trụ cột cốt lõi quyết định sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Do vậy, việc tái cấu trúc vốn tự có của các NHTM Việt Nam là một chương trình đặc biệt quan trọng của quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam.
Theo ước tính của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, các ngân hàng phải tăng vốn tự có dự kiến gấp 1,8 - 2 lần so với thời điểm hiện tại. Còn theo Moody’s, với mức tăng trưởng tín dụng hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ cần thêm 7 - 9 tỷ USD tăng thêm vốn đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 ở mức 11% vào năm 2018 và 2019.
Vì vậy, trong giai đoạn tiếp theo, các NHTM Việt Nam cần chủ động trong việc xây dựng lộ trình lộ trình, giải pháp phù hợp để tăng vốn tự có/vốn điều lệ. Thứ nhất, Chính phủ chỉ đạo NHNN và Bộ Tài chính chấp thuận cho các NHTM được cân đối và quyết định việc sử dụng nguồn cổ tức các năm để tăng vốn cho năm sau qua hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu tùy thuộc vào năng lực tài chính và điều kiện của ngân hàng. Thứ hai, bản thân các NHTM cần chủ động tăng cường quản lý rủi ro để giảm được chi phí dự phòng rủi ro là khoản mục chi phí rất lớn trong hoạt động kinh doanh, đồng thời cần thực hiện chính sách tiết kiệm chi phí quản lý hợp lý. Thứ ba, đối với các NHTM gặp khó khăn về vốn tự có, Chính phủ chỉ đạo NHNN hoàn thiện đề án nâng cao năng lực tài chính tổng thể của khối NHTM, qua đó xác
định cụ thể kế hoạch, lộ trình tăng vốn đối với khối NHTM và có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng ngân hàng. Thứ tư, Chính phủ đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa và giảm bớt tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại các NHTM. Giải pháp tăng vốn qua bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài rất có lợi, do nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và nhiều kinh nghiệm quản lý. Mặc dù vậy, việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài còn phụ thuộc vào điều kiện riêng từng ngân hàng, điều kiện thị trường và chính sách của Chính phủ. Thứ năm, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện cho các ngân hàng triển khai phương án phát hành cổ phần ra công chúng. Khi đó các ngân hàng sẽ chủ động tìm kiếm nhà đầu tư và cổ đông nhỏ lẻ để bán cổ phần, phát hành cổ phần ưu đãi cho người lao động để tăng vốn. Giải pháp này chỉ thuận lợi khi cổ đông hiện hữu có sức mạnh tài chính và không muốn giảm tỷ lệ sở hữu, trong điều kiện thị trường chứng khoán ổn định và phát triển thuận lợi. Thứ sáu, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa hoặc thu hút nhà đầu tư tài chính, đầu tư chiến lược nhằm tạo điều kiện cho các NHTM thu hút thêm vốn từ nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài, từ đó nâng cao năng lực tài chính và tranh thủ tiếp cận công nghệ hiện đại, trình độ quản trị tiên tiến của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra cần có chiến lược, Chính phủ cần có giải pháp tổng thể để thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu là kênh đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho doanh nghiệp, giảm áp lực tăng trưởng tín dụng dài hạn từ NHTM.
- Mở rộng quy mô tín dụng
Như đã đề cập ở trên, Quy mô tín dụng đại diện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Kết quả hồi quy trên 31 NHTM VN giai đoạn 2010 - 2018 cho thấy Quy mô tín dụng (LTA) tăng có tác động tích cực đến NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN. Chính vì vậy vấn đề cần thiết mở rộng quy mô tín dụng có tầm quan trọng rất lớn trong việc gia tăng năng lực cạnh tranh và gia tăng ổn định ngân hàng. Trong bối cảnh thị trường ngày càng mở rộng, cạnh tranh ngày càng cao và bất ổn tài chính có thể diễn ra trong tình hình mới, để mở rộng quy mô tín dụng các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể vận dụng thông qua một số giải pháp nhằm gia tăng hiệu quả cho việc mở rộng quy mô tín dụng như: Thứ nhất, đẩy mạnh tăng doanh thu: Phát triển dịch vụ tín dụng đi đôi với phát triển dịch vụ phi tín dụng biện pháp hữu hiệu để tăng doanh thu trong điều kiện hiện nay. Tùy vào thực tế, mỗi NHTM cần có biện pháp cụ thể và đồng bộ để tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng công tác
thẩm định, kiểm tra sau cho vay nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu. Thứ hai, giảm chi phí: Để gia tăng lợi nhuận, bên cạnh nỗ lực tăng doanh thu thì nỗ lực giảm chi phí là một khâu quan trọng, do đó cần phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ chi phí. Xây dựng tiêu chí cụ thể cho việc ghi nhận những chi phí hợp lý phát sinh. Cần có phương án phân bổ chi phí cụ thể cho từng nghiệp vụ, từng bộ phận để theo dõi đánh giá kết quả hoạt động, qua đó tìm biện pháp giảm thiểu chi phí hoặc loại bỏ những chi phí không mang lại giá trị gia tăng. Nâng cao ý thức tiết kiệm, chống lãng phí của toàn thể cán bộ công nhân viên. Nghiên cứu xây dựng định mức chi phí gắn với kết quả kinh doanh cho từng bộ phận, từng loại nghiệp vụ. Thứ ba, gia tăng nguồn vốn huy động với lãi suất thấp sẽ làm giảm đáng kể chi phí hoạt động của ngân hàng. Các NHTM Việt Nam cần quan tâm đến việc tìm kiếm và gia tăng những nguồn vốn rẻ bằng cách phát triển các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, kết nối thanh toán với khách hàng, phát triển dịch vụ thu chi hộ, đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ, dịch vụ Mobilebanking, dịch vụ trả lương qua tài khoản, qua đó tăng số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng nhằm tận dụng nguồn vốn giá rẻ đó cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Ngoài ra, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để giảm chi phí, quá trình phát triển và ứng dụng công nghệ sẽ gắn liền với việc thay đổi quy trình xử lý, nhất là khi công nghệ mới giúp tự động hóa các giao dịch sẽ giúp ngân hàng giảm được rất nhiều chi phí, giảm giá thành dịch vụ qua đó giúp ngân hàng gia tăng khả năng cạnh tranh và tăng lợi nhuận.
5.2.2. Có chiến lược cạnh tranh hiệu quả tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong đo lường thực nghiệm về tác động của NLCT đến ổn định ngân hàng, kết quả cho thấy NLCT tác động tích cực đến ổn định ngân hàng, điều này có ý nghĩa ngân hàng có NLCT cao sẽ làm gia tăng và củng cố ổn định tài chính. Như vậy, các nhà quản trị ngân hàng nên thường xuyên chú trọng củng cố NLCT để chiếm lĩnh thị phần, mang lại hiệu quả cho ngân hàng hơn nữa.
Cạnh tranh tức là khai thác, tận dụng những lợi thế về nguồn lực để tiết kiệm chi phí hay đạt được lợi thế về giá, chất lượng sản phẩm so với các đối thủ khác. Để làm được điều này, các NHTM cần tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau: Quản lý hiệu quả chi phí hoạt động hợp lý. Phần lớn chi phí này dùng để trả lương nhân viên và các khoản phụ cấp có liên quan khác. Thực tế, bộ máy nhân sự ở các NHTM hiện nay dư thừa so với yêu cầu về công
việc. Đây là kết quả của quá trình tuyển dụng ồ ạt những năm trước đây, khi mà hoạt động ngân hàng khá sôi nổi. Tuy nhiên, đến nay tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, lĩnh vực tài chính bị thu hẹp. Phần lớn ngân hàng đang trong tình trạng dư thừa nhân sự. Việc cắt giảm nhân sự theo hướng luân chuyển công việc, lịch làm việc và nghỉ phép xem kẽ bù trừ giúp giảm thiểu chi phí và ngân hàng sẽ quản lý tập trung hơn, hiệu quả sẽ cao hơn. Ngoài ra, bên cạnh việc giảm lương, khâu tuyển dụng của ngân hàng phải chú trọng nhiều hơn đến năng lực, trình độ và sự phù hợp với công việc của ứng viên. Chất lượng của các chương trình đào tạo của ngân hàng cũng phải chọn lọc, tập trung sâu vào chuyên môn, nâng cao trách nhiệm cũng như thái độ nghề nghiệp cho nhân viên. Xây dựng các chỉ tiêu kiểm tra đánh giá hiệu quả công việc của từng nhân viên.
Hiện nay, các NHTM đang gặp khó khăn trước áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài. Nếu các NHTM xây dựng chiến lược hợp tác với các đối tác tiềm năng sẽ có cơ hội khai thác công nghệ hiện đại, cơ sở hạ tầng và trình độ quản trị. Như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí đầu tư, chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải có chính sách tập trung tận dụng phát triển công nghệ để tạo ra những sản phẩm dịch vụ hiện đại, có tính chuyên môn hóa cao nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh hơn nữa. Riêng đối với các nhà quản lý và hoạch định chính sách, để góp phần hỗ trợ các ngân hàng củng cố NLCT, gia tăng ổn định ngân hàng, cần tạo môi trường lành mạnh, thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư. Đi kèm với môi trường kinh doanh là chính sách khuyến khích và tạo nhiều ưu đãi để các ngân hàng phát triển công nghệ, đầu tư hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên cũng lưu ý cơ quan quản lý phải làm tốt công tác điều hành, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các NHTM để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng.
5.2.3. Mở rộng đầu tư, phát triển dịch vụ ngân hàng đến khách hàng
Từ kết quả đo lường thực nghiệm của nghiên cứu cho thấy các khả năng đa dạng hóa thu nhập tác động tích cực đến năng lực cạnh tranh và ổn định ngân hàng cho các NHTM Việt Nam trong suốt thời gian qua. Do đó, để gia tăng NLCT và đảm bảo ổn định tài chính, các NHTM cần mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực phi truyền thống khác. Đây là xu thế phát triển tất yếu khi mà hầu hết các nguồn thu của ngân hàng trên thế giới đều từ các sản phẩm