ngân hàng đó sẽ có lợi thế để thu hút khách hàng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng, trước hết các ngân hàng cổ phần cần chú ý trong việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để tạo nền tảng phát triển và hoàn thiện dịch vụ ngân hàng. Thực tế, hầu hết các ngân hàng hiện nay mới chỉ trọng tâm khai thác thị trường dịch vụ đối với các khách hàng doanh nghiệp, trong khi thị trường dịch vụ khách hàng cá nhân còn nhiều “đất trống”. Vì vậy, tới đây các NHTMCP có thể nghiên cứu và phát triển dịch vụ dành cho đối tượng này để tăng cường thu hút nguồn vốn giá rẻ của khách hàng cá nhân.
3.2.6. Đẩy mạnh phát triển các hoạt động phi tín dụng.
Thực tế chung, hoạt động tín dụng đem lại thu nhập chủ yếu cho các NHTM Việt nam. Việc chạy đuổi theo tăng trưởng tín dụng bất chấp rủi ro của nhiều NHTMCP trong thời gian qua cũng xuất phát từ áp lực lợi nhuận của ngân hàng. Để giảm gánh nặng đối với hoạt động tín dụng trong khi lợi nhuận luôn là mục tiêu hoạt động, các NHTM cần phải đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và dịch chuyển dần hoạt động theo hướng giảm quy mô cho vay trong danh mục tài sản có của ngân hàng cũng như phát triển các dịch vụ phi tín dụng. Hơn nữa, phát triển các dịch vụ phi tín dụng còn giúp các NHTMCP đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và thu hút khách hàng, đáp ứng yêu cầu của thị trường, khả năng cạnh tranh cũng như vị thế của ngân hàng trên thị trường. Để phát triển hoạt động phi tín dụng, các giải pháp mà ngân hàng cần chú trọng như sau:
Thứ nhất: Có lộ trình và chiến lược trong việc phát triển dịch vụ phi tín dụng
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển dịch vụ phi tín dụng, nhưng ở nhiều NHTMCP chưa có những chiến lược và lộ trình cụ thể trên cơ sở khảo sát nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng của ngân hàng. Vì vậy,các ngân hàng có những phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh để có những giải pháp thích hợp nhằm khai thác thế mạnh và khắc phục yếu điểm trong việc cung cấp các dịch vụ phi tín dụng.Trên thực tế, các sản phẩm dịch vụ của nhiều NHTMCP đều có tính tương đồng mà thiếu đi tính mũi nhọn và đặc thù riêng, vì vậy chiến lược phát triển dịch vụ phi tín dụng cần khái thác những sản phẩm có tính riêng biệt nhằm thu hút khách hàng trong quá trình cạnh tranh.
Thứ hai: Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ phi tín dụng cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ mới.
- Đối với các dịch vụ phi tín dụng truyền thống: Đây là yếu tố nền tảng tạo ra thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Vì vậy, NHTM cần duy trì và nâng cao chất lượng theo hướng: Hoàn thiện quá trình cung cấp dịch vụ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đơn giản thủ tục, dễ tiếp cận và hấp dẫn khách hàng;
- Đối với dịch vụ phi tín dụng mới, thì cần nâng cao năng lực marketing của các NHTM, giúp các doanh nghiệp và công chúng hiểu biết, tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, đầu tư công nghệ để tăng tính tiện ích của các dịch vụ ngân hàng, sử dụng linh hoạt công cụ phòng chống rủi ro gắn với đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Trình Xây Dựng Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh.
- Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Ngân Hàng Đặc Biệt Là Quản Trị Rủi Ro Và Quản Trị Điều Hành
- Tăng Cường Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng.
- Nâng Cao Hiệu Quả Của Công Tác Quản Lý, Thanh Tra Giám Sát Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
- Hoàn Thiện Các Chính Sách Vĩ Mô Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Và Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 27
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Thứ ba, phát triển công nghệ ngân hàng.
Mức độ đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ phi tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại, bởi xu hướng nhu cầu của thị trường hiện nay là chủ yếu các dịch vụ ngân hàng dựa trên những ứng dụng của tin học. Vấn đề đầu tư công nghệ ngân hàng phải xem xét trên các yêu cầu sau:
- Các ngân hàng cần xây dựng một chiến lược phát triển công nghệ dài hạn, đi đôi với phát triển nguồn lực hiện có. Việc thay đổi công nghệ ngân hàng khá tốn kém, vì thế nếu không có chiến lược phát triển công nghệ đúng đắn có thể tạo ra sự lãng phí lớn. Chiến lược công nghệ cần đi sâu vào các mặt, như: trình độ công nghệ, kỹ thuật, khả năng cải tiến, nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ, ứng dụng, khai thác công nghệ thông tin, kỹ thuật số, điện tử và viễn thông trong hoạt động kinh doanh (giao dịch, thanh toán, quản trị điều hành…) của ngân hàng.
- Phát triển công nghệ ngân hàng phải đảm bảo tính an toàn trong vận hành công nghệ là ưu tiên hàng đầu, vì tất cả các thông tin dữ liệu được lưu trữ trên mạng, một sự cố về công nghệ thông tin có thể mất dữ liệu, hoặc làm cho hoạt động của ngân hàng ngưng trệ ảnh hưởng đến khách hàng, đồng thời gây tổn hại đến uy tín của ngân hàng.
Ngoài ra, cần xây dựng quy trình, quy định về thẩm quyền của từng bộ phận chức năng, từng cá nhân trong việc vận hành và sử dụng hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng nhằm tăng mức độ an toàn, tăng tính bảo mật trong hệ thống cơ sở dữ liệu. Thường xuyên có kế hoạch kiểm tra và bảo trì hệ thống đảm bảo sự ổn định.
Thứ tư, hạn chế các rủi ro trong phát triển dịch vụ phi tín dụng.
Việc quản lý và phòng ngừa các loại rủi ro là điều hết sức cần thiết và quan trọng khi triển khai các dịch vụ phi tín dụng. Hoạt động này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, năng lực hoạt động của ngân hàng và tác động trực tiếp tới quyết định sử dụng dịch vụ của khách hàng. Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, gồm: Xác định rõ trách nhiệm của nhân viên trong việc giám sát xây dựng và duy trì các chính sách an ninh của ngân hàng; Thực hiện kiểm tra trực tiếp đầy đủ để ngăn ngừa các hành vi truy cập thực tế chưa được phép trong môi trường máy tính; Các mối quan hệ với các đối tác thứ ba cũng phải được giám sát chặt chẽ…
Và cuối cùng, để phát triển dịch vụ phi tín dụng thì yếu tố con người cũng hết sức cần thiết, nguồn nhân lực năng động, có trình độ tin học, ngoại ngữ tốt là chính sách cán bộ mà ngân hàng cần hướng tới. Bởi phát triển dịch vụ tín dụng đều dựa trên việc ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại cũng như yêu cầu cạnh tranh của thị trường dịch vụ ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt.
3.2.7. Nâng cao chất lượng nhân lực
Trong bấy kỳ một doanh nghiệp nào, yếu tố con người luôn được đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển. Với đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đầy rủi ro và áp lực cạnh tranh cao thì yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực lại càng có ý nghĩa quan trọng. Với phương châm, nhân lực là yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị của ngân hàng, vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như năng lực tài chính ngân hàng thì yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực luôn là mục tiêu mà ngân hàng phải theo đuổi. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là trình độ được đo qua bằng cấp, mà vấn đề cốt lõi là mức độ đóng góp trên cơ sở yêu cầu của công việc thực hiện. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, những vấn đề mà các ngân hàng cần thực hiện là:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo lại nhân viên trong ngân hàng.
Về công tác tuyển dụng: Đây cũng là một kế hoạch nằm trong chiến lược hoạt động cũng như nhiệm vụ hàng năm của NHTM. Để thực hiện kế hoạch nguồn nhân lực hàng năm, ngân hàng sẽ xây dựng phương án tuyển dụng như số lượng và vị trí tuyển dụng, tiêu trí tuyển dụng ứng với mỗi vị trí,cách thức tuyển dụng, thời điểm tuyển dụng. Về số lượng và vị trí tuyển dụng sẽ được thống kê trong toàn hệ thống trên cơ sở nhu cầu đáp ứng cho công việc hiện tại và định hướng tương lai. Tiêu chí tuyển dụng cần được xây dựng cụ thể với từng vị trí công việc, đảm bảo nguyên tắc phù hợp với yêu cầu công việc và tiết giảm chi phí tiền lương của ngân hàng. Về cách thức tuyển dụng, ngoài cách thức truyền thống trước đây, các ngân hàng có thể liên kết với các cơ sở đào tạo. Để khắc phục yếu điểm nhất của phương thức đào tạo tại các trường đại học hiện nay là nặng về lý thuyết, các ngân hàng có thể đặt hàng tại các cơ sở đào tạo tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế để rèn luyện kỹ năng thực hành. Để tận dụng nguồn ứng cử viên có “tố chất”, các cơ sở đào tạo sẽ chiêu sinh từ các trường đại học có danh tiếng. Ngoài việc đào tạo thêm về kiến thức chuyên môn cần thiết theo vị trí công việc, các ứng cử viên được rèn luyện thêm về đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng mềm, làm việc theo nhóm. Đặc biệt, đội ngũ này sẽ được thực hành tại các chi nhánh ngân hàng hay trên các mô hình ngân hàng ảo để gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Nguồn nhân lực này sẽ được các ngân hàng tuyển dụng sau khi đã hoàn thành khóa học đào tạo của trung tâm đào tạo và vòng phỏng vấn của ngân hàng.
Đào tạo lại: Do yêu cầu của quá trình cạnh tranh, các ngân hàng luôn phải đối mặt với sức ép đổi mới để phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của chất lượng dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, ngoài việc tuyển dụng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, các ngân hàng cần liên tục đào tạo lại đội ngũ nhân viên. Ít nhất mỗi năm một lần, nhân viên phải được tham gia tập huấn các lớp đào tạo để cập nhật những kiến thức về các sản phẩm mới cũng như quy trình nghiệp vụ được cải tiến trong ngân hàng. Để làm được điều này, mỗi ngân hàng phải có một trung tâm đào tạo với phần lớn đội ngũ giáo viên là chính các chuyên gia, hay các nhà quản lý có kinh nghiệm trong ngân hàng. Nội dung chương trình đào tạo của các trung tâm phải đảm bảo
cập nhật các kiến thức mới gắn kết với mục tiêu và chương trình hành động của ngân hàng, phù hợp với từng đối tượng cán bộ ngân hàng. Ngoài những khóa đạo tạo theo định kỳ tại ngân hàng, với đội ngũ bộ phận quản lý có thể được tham gia các lớp đào tạo của chuyên gia nước ngoài để họ tích lũy được kinh nghiệm và khả năng xử lý tình huống. Sau mỗi khóa đào tạo lại, ngân hàng cần tổ chức sát hạch để làm căn cứ đánh giá mức độ đáp ứng công việc cũng như gắn kết với chính sách lương, thưởng phù hợp. Có như vậy mới tránh được sức ỳ trong mỗi nhân viên ngân hàng, thúc đẩy họ năng động hơn để đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng nhân lực quản lý.
Bộ máy nhân lực quản lý được coi như “đầu kéo”đối với sự chuyển động của guồng máy hoạt động ngân hàng. Có một thực tế, với mô hình công ty cổ phần nên bộ phận điều hành của ngân hàng phụ thuộc số phiếu biểu quyết của các cổ đông, nên những thành viên của hội đồng quản trị thường phụ thuộc vào số lượng cổ phần nắm giữ. Chính vì vậy, ở một số ngân hàng nhân lực điều hành thường bị hạn chế về trình độ và kinh nghiệm quản lý. Để khắc phục yếu điểm này, ngân hàng cần lựa chọn các cổ đông chiến lược, đặc biệt là các cổ đông nước ngoài. Mặt khác, để có bộ máy giúp việc đắc lực, ngoài việc tuân thủ trình tự bổ nhiệm tổng giám đốc theo quy định của NHNN (Nghị định 59/NĐ-CP về tổ chức hoạt động của ngân hàng) các NHTMCP cần phải xây dựng quy trình cũng như tiêu chí bổ nhiệm các vị trí quản lý trong ngân hàng.
Thứ ba: Ngân hàng phải có chế độ lương thưởng phù hợp để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nếu con người là yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị của ngân hàng thì chế độ lương, thưởng lại là yếu tố quyết định để có thể thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, bên cạnh việc tạo môi trường làm việc tốt cho cán bộ, ngân hàng cần xây dựng chính sách lương, thưởng phù hợp. Chế độ lương thưởng phải đảm bảo nguyên tắc:
- Xứng đáng với mức độ đóng góp của người lao động mà cụ thể là đãi ngộ xứng đáng với những nhân viên xuất sắc và kiểm soát chặt chẽ với những nhân viên không hoàn thành công việc được giao. Điều này một mặt sẽ khuyến khích nhân
viên nâng cao hiệu quả lao động cũng như đóng góp cho ngân hàng, mặt khác sẽ góp phần thu hút và giữ nhân tài cho ngân hàng.
- Gắn chế độ đãi ngộ với hiệu quả hoạt động chung của ngân hàng và bộ phận nghiệp vụ của nhân viên. Nguyên tắc này nhằm tăng tính liên kết, phối hợp và hiệu quả hoạt động nhóm giữa các nhân viên ngân hàng để hướng tới mục tiêu chung.
- Chính sách lương thưởng phải đảm bảo yếu tố cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác, góp phần khảng định giá trị cốt lõi và thương hiệu của ngân hàng.
Để có chế độ lương thưởng phù hợp, ngân hàng phải xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chính xác năng lực nhân viên. Các chỉ tiêu này được xây dựng riêng cho từng vị trí công việc và được lượng hóa để có cơ sở so sánh, đánh giá. Dựa trên các tiêu chí xây dựng, định kỳ ngân hàng sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá phân loại cán bộ để áp dụng mức lương, thưởng theo quy định chung.
Thứ tư: Nâng cao nhận thức về đạo đức nghề nghiệp với nhân viên Ngân
hàng
Nền tảng kinh doanh ngân hàng là dựa trên chữ tín, vì vậy các hoạt động
không chỉ đòi hỏi tính chuyên nghiệp mà còn phải có tính minh bạch cao. Thực tế trên thế giới cho thấy, rủi ro đạo đức có thể đe dọa đến sự đổ vỡ của một Ngân hàng. Do vậy, tăng cường giáo dục đạo đức là việc làm cần thiết của ngân hàng bên cạnh yêu cầu xây dựng quy trình tác nghiệp chặt chẽ và hệ thống kiểm soát đặc biệt đối với cán bộ Ngân hàng.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM.
Nâng cao năng lực tài chính ngân hàng, không chỉ phụ thuộc vào những nỗ lực từ phía các NHTM mà còn phụ thuộc nhiều vào những tác động từ bên ngoài. Vì vậy, bên cạnh những giải pháp thực thi của NHTM, cần có sự hỗ trợ từ NHNN cũng như các Bộ ngành và Chính phủ nhằm giúp các NHTMCP nâng cao năng lực tài chính trong bối cảnh hiện nay.
3.3.1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.1.1 Thúc đẩy quá trình tái cấu trúc các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP luôn đi đôi với tiến trình và những thành công của quá trình tái cấu trúc ngân hàng. Vì vậy, với vị trí là cơ quan quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng, NHNN cần xây dựng những giải pháp thích hợp cũng như quyết liệt triển khai để thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc đối với các NHTM. Cụ thể là:
- Tiếp tục yêu cầu các NHTM nhanh chóng hoàn thành việc thống kê chính xác về quy mô cũng như cơ cấu nợ xấu để gửi về NHNN. Trên cơ sở tổng hợp số liệu, thực trạng nợ xấu và các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng theo đề án của mỗi Ngân hàng, NHNN sẽ tư vấn, phê duyệt, giám sát quá trình triển khai đề án xử lý nợ xấu của các NHTM. Cương quyết xử lý bằng chế tài đối với các ngân hàng có dấu hiệu che dấu nợ xấu hay không thực hiện nghiêm túc các giải pháp xử lý theo đề án đã được NHNN phê duyệt. Mục đích để cuối 2015, các NHTM có thể hoàn tất việc xử lý nợ xấu để lành mạnh hóa tình trạng tài chính, tạo nền móng vững chắc cho giai đoạn phát triển an toàn, bền vững.
- Từng bước giải quyết những hệ lụy của sở hữu chéo ngân hàng. Thực tế hiện nay, sở hữu chéo đang làm “mù mờ”hiện trạng của các NHTM cũng như “vô hiệu hóa”các biện pháp quản lý giám sát hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Vì vậy, để hướng tới yêu cầu năng cao năng lực tài chính của các NHTMCP thì giải quyết những hệ lụy của sở hữu chéo ngân hàng là biện pháp hàng đầu cần được thực thi từ phía NHNN; Cụ thể
Quan điểm xử lý tình trạng sở hữu chéo là kiên quyết nhưng phải thận trọng với những bước đi phù hợp. Quan điểm này xuất phát từ thực tế là sở hữu chéo có tác động mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Và mục đích của nhà quản lý là loại trừ những tác động tiêu cực của sở hữu chéo chứ không phải xóa bỏ tình trạng sở hữu chéo. Mặt khác, thực hiện giải pháp này là cần thiết nhưng nếu không thận trọng sẽ dẫn đến những đổ vỡ “không kiểm soát”, gây ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng.
NHNN yêu cầu các NHTMCP công khai, báo cáo việc cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần đặc biệt đối với người có liên quan của những đối tượng không được cấp tín dụng, đối tượng hạn chế cấp tín dụng.Giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của các đối tượng có sở hữu chéo. Trong đó, NHNN giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của những cổ đông và người có liên quan tại các TCTD có liên quan để một mặt đánh giá khả năng tài chính của cổ đông; mặt khác, ngăn chặn, phát hiện và xử lý tình trạng thao túng, chi phối Ngân hàng dẫn đến vi phạm giới hạn cấp tín dụng cho cổ đông và người liên quan
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, rà soát, chấn chỉnh các trường hợp vi phạm các quy định của Luật các TCTD năm 2010 và các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu chéo của các TCTD theo tinh thần của thông tư 36/2014/TT- NHNN. Xây dựng lộ trình giảm sở hữu vốn lẫn nhau giữa các TCTD; tạo điều kiện cho các TCTD thoái vốn ở các TCTD và các công ty con, công ty liên kết hoạt động không có hiệu quả.
Xác định nguồn lực tài chính các cổ đông của TCTD khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại TCTD. Để đảm bảo nguồn vốn của các cổ đông là cá nhân, tổ chức đầu tư vào TCTD là hợp pháp và phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của họ. Khi xem xét việc tăng vốn điều lệ của các TCTD, NHNN tăng cường công tác xác minh nguồn tiền của các cổ đông và người có liên quan khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại các TCTD (thông qua các hồ sơ chứng minh năng lực tài chính và quan hệ tín dụng tại các TCTD).
NHNN phối hợp chặt chẽ với Ủy ban chứng khoán nhà nước theo dõi, giám sát việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần trên thị trường chứng khoán, đồng thời giám sát chặt chẽ các khoản cho vay đối với các nhà đầu tư có giao dịch lớn cổ phiếu để hạn chế việc cho vay, tài trợ lớn các giao dịch mua bán cổ phiếu gây tác động bất lợi tới thị trường chứng khoán và rủi ro của Ngân hàng.
- Với quan điểm xử lý cơ cấu lại các tổ chức tín dụng theo hướng khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng theo nguyên tắc tự nguyện. Hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho cho xử lý những vấn đề của hệ thống các tổ chức tín dụng. Để loại bỏ những ảnh