Thẩm Định Năng Lực Tài Chính Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại

+ Phương pháp trả vốn gốc và lãi bằng nhau trong tất cả các định kỳ.

- Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận.

- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (áp dụng trong trường hợp cho vay thấu chi).

Phân loại theo xuất xứ tín dụng:

Dựa vào căn cứ này, cho vay DNNVV được chia thành:

- Cho vay trực tiếp: Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.

- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.

Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay vốn:

- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: Là loại cho vay mà ngân hàng cung ứng với điều kiện KH vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.

- Cho vay có bảo đảm không phải bằng tài sản: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân KH, cho vay theo chỉ định của Chính phủ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.

d. Phương pháp cho vay DNNVV

Đối với DNNVV, các NHTM có thể sử dụng một số phương pháp cho vay như sau:

Hoàn thiện thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội 1684137068 - 7

Cho vay từng lần: Trong phương pháp này, doanh số cho vay không được vượt quá số tiền cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và áp dụng đối với mọi KH đáp ứng đủ điều kiện vay vốn theo quy định. Mỗi lần vay vốn, KH và CV QHKH làm thủ tục vay vốn và ký kết hợp đồng tín dụng. Số tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở dự án, phương án, nhu cầu vay vốn của KH; tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định về bảo đảm tiền vay của NHTM: nguồn trả nợ và khả năng trả nợ của KH vay. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể giải ngân một hoặc nhiều lần sao cho phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn thực tế của KH.

Cho vay theo hạn mức tín dụng: Trong phương pháp này, dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Phương pháp này áp dụng đối với các KH: (i) đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn; (ii) sản xuất kinh doanh ổn định, mặt hàng đa dạn; (iii) quan hệ vay vốn thường xuyên và có mức độ tín nhiệm cao về sử dụng vốn vay. Hạn mức cho vay, thời gian duy trì hạn mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở phương án, kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vay vốn của KH, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định về đảm bảo tiền vay của ngân hàng, nguồn trả nợ, khả năng thanh toán của KH vay. Trong thời hạn duy trì hạn mức cho vay, KH được rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng không được vượt quá hạn mức tín dụng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Cho vay theo dự án đầu tư: Trong phương pháp này, doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Áp dụng cho KH vay vốn đủ điều kiện vay vốn theo quy định, để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Số tiền cho vay, thời hạn cho vay được xác định trên cơ sở dự án, nhu cầu vay vốn của KH, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định về bảo đảm tiền vay của ngân hàng, nguồn trả nợ, khả năng hoàn trả nợ của KH vay. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể giải ngân một hoặc nhiều lần phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn thực tế của KH. Mỗi lần nhận tiền vay, KH phải lập giấy nhận nợ và có bảng kê (trường hợp có quá nhiều chứng từ), các giấy tờ chứng minh rõ mục đích sử dụng vốn vay, phù hợp với nội dung sử dụng vốn vay ghi trong hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ.

Cho vay trả góp: Trong phương pháp này, doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, số tiền vay được trả nợ thành nhiều kỳ hạn đều bằng nhau với tổng số tiền trả nợ gốc và lãi của mỗi kỳ hạn bằng nhau, trong đó số tiền trả lãi được tính trên dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kỳ hạn trả nợ đó. Áp dụng đối với KH đáp ứng đủ điều kiện vay vốn theo quy định chứng minh được nguồn thu nhập chắc chắn, ổn định để trả nợ gốc và lãi vay. KH có thể trả nợ trước hạn nhưng vẫn phải trả số tiền lãi đã xác định và thỏa thuận của kỳ hạn đó. Trường hợp phát sinh nợ quá hạn, KH phải trả thêm lãi phạt quá hạn.

Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: Là việc ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho KH vay vốn trong phạm vi hạn mức cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Ngoài việc thực hiện các quy định như các phương thức cho vay khác, ngân hàng và KH thỏa thuận và ghi trong hợp đồng tín dụng về thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay, mức phí phải trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

Cho vay hợp vốn: Ngân hàng cùng với một hoặc một số tổ chức tín dụng, hoặc chi nhánh của tổ chức tín dụng khác thực hiện việc cho vay một hoặc một phần dự án, phương án, trong đó ngân hàng cho vay có thể là tổ chức đầu mối hoặc thành viên cho vay hợp vốn.

Cho vay theo các phương pháp khác: Tùy theo nhu cầu của KH và thực tế phát sinh, ngân hàng cho vay sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp với đặc điểm hoạt động trong từng thời kỳ và không trái với quy định của pháp luật.

e. Vai trò của cho vay DNNVV

Đối với nền kinh tế

Thứ nhất, mức độ đóng góp của DNNVV vào nền kinh tế ngày càng lớn. Không chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các DNNVV đang trở thành bộ phận quan trọng có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GDP, 37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.

Phát triển DNNVV luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được thực thi tốt hơn, có hiệu quả hơn và do đó các DNNVV sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Thứ hai, các ưu thế của nhiều doanh nghiệp lớn đang giảm sút.

Việt Nam đang trong xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, quy mô của nhiều DNNN hiện nay sẽ

thu hẹp, song song với việc cổ phần hoá từng phần hoặc toàn bộ các DNNN này thì các công ty mới, nhỏ hơn cùng ngành ra đời. Chính bản thân một số doanh nghiệp được coi là lớn hiện nay không có tiềm lực kinh tế thực sự; khu vực Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện nay, đã và đang bộc lộ tính kém hiệu quả.

Đối với NHTM

Các DNNVV từ trước đến nay vẫn bị coi là nhóm khách hàng có độ rủi ro và chi phí giao dịch lớn. Tuy nhiên nếu thực hiện tốt công tác thẩm định và sàng lọc thì ngân hàng có thể duy trì một danh mục khách hàng hiệu quả.

Việc ngân hàng phát triển cho vay đối với DNNVV đem lại các lợi ích cơ bản sau:

- Phân tán rủi ro: Do số lượng khách hàng DNNVV lớn, quy mô từng khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro của các danh mục cho vay.

- Tạo điều kiện để tăng thu dich vụ ngân hàng do tổng số lượng giao dịch lớn, các DNNVV lại thường có xu hướng sử dụng trọn gói dịch vụ tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.

- Ngân hàng dễ dàng quản lý do DNNVV thường có quy mô nhỏ, gọn, địa bàn hoạt động hẹp.

- Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước: Do các DNNVV có địa bàn hoạt động trải rộng trên cả nước nên các ngân hàng có thể khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố.

Đối với DNNVV

Thứ nhất, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất.

Vai trò quan trọng nhất của cho vay ngân hàng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DNNVV. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp duy trì được hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của doanh nghiệp phải đồng thời ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra ở các doanh nghiệp, khi đó cho vay đã góp phần điều tiết các nguồn vốn nhằm tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn. Nhờ đó mà các doanh nghiệp có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.

Thứ hai, giúp DNNVV nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Muốn tiếp cận được nguồn vốn cho vay ngân hàng đòi hỏi DNNVV phải xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, đem lại lợi nhuận để thực hiện tốt các điều khoản trong hợp đồng cho vay, đảm bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy, cho vay ngân hàng thúc đẩy doanh nghiệp phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.

Thứ ba, giúp hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNNVV

Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì nguồn vốn hạn chế. Nếu chỉ sử dụng nguồn vốn này thì giá vốn sẽ cao, sản phẩm khó được thị trường chấp nhận, hơn nữa khó có khả năng đầu tư mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vậy, để có một cơ cấu vốn hiệu quả, kết cấu hợp lý là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.

Thứ tư, góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV

Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các DNNVV, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy để có thể đáp ứng kịp thời, tìm đến nguồn cho vay ngân hàng là một điều phù hợp.

1.2. THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.2.1.1. Khái niệm năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa

Hiện nay, quan niệm về NLTC không chỉ được nhìn nhận đối với đối tượng là con người mà còn được mở rộng với nhiều đối tượng khác nhau như năng lực của tổ chức chính trị xã hội, năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước, năng lực các trường học, năng lực của các doanh nghiệp…

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng 2000 thì “năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” (Trang 660, 661). “Khả năng, điều kiện” ở đây được hiểu là cái vốn có, sẵn có của bản thân đối tượng được đề cập. Cái vốn có này có thể xuất hiện “tự nhiên” ngay khi đối tượng mới được hình thành hoặc qua tác động “chủ quan”, cái vốn có có thể thay đổi. Bên cạnh đó, nội hàm khái niệm “năng lực” cần được hiểu trên một nội dung đáng chú ý. Đó là cái vốn có, khả năng, điều kiện đó nhằm thực hiện một hoạt động nhất định. Từ đó có thể rút ra năng lực của một chủ thể trong một lĩnh vực là khả năng đáp ứng những yêu cầu của hoạt động nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.

Theo quan điểm của các nhà khoa học Học viện Tài chính thì: “Tài chính thể hiện là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.”

Biểu hiện bên ngoài hay mặt vật chất của tài chính là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ. Quan sát thực tiễn các quá trình vận động kinh tế - xã hội có thể nhận thấy các biểu hiện bên ngoài này thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tiền tệ đại diện cho một sức mua nhất định, một lượng giá trị nhất định gọi là nguồn tài chính. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể kinh tế xã hội có thể khai thác sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình.

Trên góc độ tài chính, thuật ngữ NLTC của doanh nghiệp đã được sử dụng khá phổ biến nhưng khái niệm, nội hàm của nó vẫn chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. Xuất phát từ khái niệm về năng lực và tài chính, có thể đưa ra quan điểm về NLTC của DNNV như sau: NLTC của DNNVV là khả năng, điều kiện đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động của DN nhằm đạt được mục tiêu mà DN đề ra.

Nguồn lực tài chính thực chất là nguồn vốn mà DN có khả năng huy động đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp. Nói cách khác, nguồn lực tài chính là vốn bằng tiền và các tài sản có thể chuyển hóa thành tiền hay tương đương tiền mà DN có khả năng sử dụng các công cụ tài chính để huy động đáp ứng yêu cầu cần thiết cho hoạt động của mình.

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính ngày càng phát triển và khi đó công cụ tài chính càng đa dạng, nguồn vốn tiềm năng cho DN càng phong phú. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là DN có khả năng tiếp cận huy động khai thác các nguồn vốn đó hay không. Chính điều đó là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt về NLTC giữa các DN.

NLTC của mỗi DNNVV có giới hạn nhất định. Sự giới hạn đó bắt nguồn từ sự chi phối bởi chính các yếu tố bên trọng cấu thành DN và các yếu tố bên ngoài.

Trong hoạt động của DNNVV để thực hiện mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có NLTC tương xứng. Mục tiêu của DN chính là đích mà các DNNVV hướng tới. Các DNNVV hoạt động trong môi trường luôn luôn biến động, từ đó xuất hiện những cơ hội có thể đem lại lợi nhuận cũng như rủi ro cho DN. Trong điều kiện đó, nhà quản trị phải có khả năng đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu của DN, đồng thời phải tổ chức thực hiện các hoạt động của DN hướng tới mục tiêu đã đặt ra. Hầu hết các DN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đều có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận càng cao càng tốt. Nhưng mục tiêu này không phải dễ đánh giá bởi mục tiêu này chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như thời gian, rủi ro… do đó không thể coi lợi nhuận là yếu tố duy nhất tác động đến hoạt động của DN. Chính vì vậy, tối đa hóa giá trị thị trường của DN hay đối đa hóa giá trị tài sản của các chủ sở hữu hiện tại là mục tiêu quan tâm nhất của của các nhà quản trị tài chính DN. Mục tiêu này có tính bao trùm, bởi lẽ nó xem xét, đánh giá hoạt động kinh doanh của DN dưới góc độ thời gian, rủi ro và nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên các nhà quản trị rất khó dự

đoán chính xác phản ứng của thị trường đối với một quyết định hay một kế hoạch kinh doanh. Mặt khác, việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của một quyết định tài chính đối với giá trị của DN cũng không dễ dàng vì có rất nhiều yếu tố môi trường thay đổi cùng lúc tại thời điểm ra quyết định. Vì vậy, nhà quản trị giỏi phải là người đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp lý nhằm tối đa hóa giá trị thị trường của DN, tối đa hóa giá trị tài sản của các cổ đông.

Với quan niệm về NLTC của DNNVV như trên, nội hàm khái niệm này trước hết được hiểu là khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các hoạt động của DNNVV.

Nguồn lực tài chính là vốn bằng tiền và các tài sản có thể chuyển hóa thành tiền hay tương đương tiền mà DNNVV có khả năng sử dụng các công cụ tài chính để huy động, đáp ứng yêu cầu cần thiết cho hoạt động của mình. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ DNNVV nào cũng cần có một lượng vốn kinh doanh nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh của DNNVV được hiểu là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động sử dụng vào hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của DN mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình hoạt động và phát triển của DN. Việc thiếu vốn sẽ khiến cho các hoạt động của DN gặp khó khăn có thể bỏ lỡ cơ hội đầu tư hoặc phải thu hẹp quy mô kinh doanh. Do vậy, một DNNVV có NLTC phải đảm bảo đáp ứng đủ vốn cho các hoạt động của DN được tiến hành bình thường, liên tục.

Nội dung thứ hai trong hàm ý khái niệm về NLTC của DNNVV là khả năng đảm bảo an toàn tài chính DN.

Trong hoạt động kinh doanh, các DNNVV luôn phải đối mặt với những biến cố không chắc chắn trong tương lai có thể gây tổn thất, thiệt hại cho DN như yếu tố lạm phát, sự biến động của lãi suất, tỷ giá hối đoái, sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng… đã tác động mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh, từ đó tác động đến giá trị tài sản và kết quả kinh doanh của DN. Các yếu tố này thường được coi là rủi ro. Như vậy, rủi ro là một sự ngẫu nhiên xuất hiện các biến cố có thể đưa lại tổn thất hay kết quả không như mong đợi. Khả năng an toàn cho DNNVV có nghĩa là khả năng đảm bảo các hoạt động của DN không bị tổn thương, không bị nguy hiểm từ những rủi ro trong

Xem tất cả 245 trang.

Ngày đăng: 15/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí