Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Nhân Lực Và Nâng Cao Chất Lượng Nhân Lực Trong Doanh Nghiệp


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP


1.1 Một số khái niệm cơ bản

1.1.1 Nhân lực

Nhân lực chính là sức lực nằm trong mỗi con người, để con người có thể hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người. Cho đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động hay còn gọi là con người có sức lao động.

Về cơ bản, nhân lực được định nghĩa là nguồn lực xuất phát từ trong chính bản thân của từng cá nhân con người. Nhân lực bao gồm thể lực và trí lực. Nguồn lực này ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể bên ngoài của con người. Cho đến một ngày, nguồn lực này đủ lớn, đáp ứng các điều kiện để con người có thể tham gia vào lao động, sản xuất. Chính vì điều đó, nhân lực tạo ra sự khác biệt so với các nguồn lực khác trong doanh nghiệp (nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật, máy móc...).

“Nhân lực con người” hoặc “ nhân lực” là khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đều đề cập đến khái niệm nhân lực với các góc độ khác nhau.

Trong giáo trình của PGS. TS. Nguyễn Tiệp (2011) đã đưa ra khái niệm: “ Nhân lực là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội”.

Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh ( 2008): “ Nhân lực là phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.


lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng, chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội”.

Nâng cao chất lượng nhân lực tại ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Từ Liêm - 3

Theo Phạm Minh Hạc (1999):” Nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sang tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Theo David Begg (2007): “ Nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con người tích lũy được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn nhân lực vật chất, nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai”.

Như vậy theo những quan điểm phía trên thì nhân lực có thể được định nghĩa theo hai cách: “ Theo nghĩa rộng thì nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động”. “Theo nghĩa hẹp thì nhân lực là khả năng lao động của xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, là tổng thể của các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, tinh thần, thái độ, ý thức lao động”.

Nhân lực trong ngân hàng thương mại

Nhân lực chính là nguồn lực quan trọng nhất trong doanh nghiệp. Có thể hiểu đơn giản nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm tất cả những người lao động đã và đang làm việc trong doanh nghiệp.

Trong ngân hàng thương mại, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ các khả năng về thể lực và trí lực của con người được vận dụng trong thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Nó cũng được xem là sức lao động của con người – một nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực của ngân hàng thương mại. Nguồn nhân lực trong ngân hàng thương mại bao gồm toàn bộ


đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc tại tất cả các phòng ban ngân hàng, là yếu tố cấu thành nên tổ chức, vận hành và quyết định sự thành bại trong kinh doanh ngân hàng ( Lê Kim Huệ, 2015).

Trong phạm vi luận văn, nhân lực của doanh nghiệp được hiểu là tổng số người lao động có trong danh sách của một doanh nghiệp, làm viêc bằng kiến thức, kỹ năng và thái độ của họ, hoạt động theo chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp.

1.1.2 Chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp

Trong những năm qua, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam từng bước được cải thiện, song nhìn chung còn nhiều hạn chế, phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.

Theo TS. Tạ Ngọc Hải (2009): “ Chất lượng nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như trí tuệ, sự hiểu biết, trình độ, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, thẩm mỹ … của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng để xem xét và đánh giá chất lượng nguồn nhân lực”.

Theo TS. Nguyễn Hữu Thân (2010): ” Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp về những người thuộc nguồn nhân lực được thể hiện ở các mặt sau đây: sức khỏe của người lao động, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lựu thực tế về tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, tính năng động xã hội (gồm khả năng sáng tạo, sự linh hoạt, nhanh nhẹn trong công việc, v..v.) ; phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc, môi trường làm việc, hiệu quả hoạt động lao động của nguồn nhân lực và thu nhập mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân ( gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của người lao động”.


Từ các khái niệm trên ta có thể thấy chất lượng nhân lực là sự thực hiện hóa năng lực thể chất và năng lực tinh thần sáng tạo, tìm kiếm, phát hiện thông tin và vật chất hóa thông tin thành mức độ hoàn thành công việc, sản phẩm và công nghệ mới. Do đó, khả năng sáng tạo đổi mới là đặc điểm nổi bật của chất lượng nhân lực.

Nói cách khác, tất cả các yếu tố kiến thức, kỹ năng, thái độ cấu thành nên chất lượng nhân lực. Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp thể hiện ở sức mạnh hợp thành của các khả năng lao động. Tuy nhiên, trong doanh nghiệp chất lượng lao động được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa chi phí thời gian lao động với hiệu quả của lao động.

Chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó được thể hiện qua 3 yếu tố chính như sau:

Kiến thức là những điều hiểu biết có được hoặc do từng trải, hoặc nhờ học tập. Nó gồm 3 yếu tố: kiến thức tổng hợp những hiểu biết chung về thế giới, kiến thức chuyên ngành về một vài lĩnh vực đặc trưng như kế toán, tài chính,….và kiến thức đặc thù những kiến thức đặc trưng mà nhân lực trực tiếp tham gia hoặc được đào tạo. Để có thể tham gia vào công việc, những người làm việc tại các tổ chức cần phải có một trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nhất định. Trình độ chuyên môn không chỉ về chuyên ngành làm việc mà còn đòi hỏi một kiến thức về đa chức năng, ví dụ hiểu biết về khách hàng, đối tác,….

Kỹ năng của nhân lực là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác, động tác, ngiệp vụ trong quá trình hình thành một công việc cụ thể nào đó. Những kỹ năng sẽ giúp cho người công nhân đó hoàn thành tốt công việc của mình, quy định tính hiệu quả của công việc. Trong quá trình làm việc, có trình độ


chuyên môn chưa phải là đủ mà những người làm việc cần phải có những kỹ năng như : kỹ năng về đàm phán, kỹ năng thuyết phục, tư vấn khác hàng,…..

Thái độ của nhân lực cho thấy cách nhìn nhận của người đó về vai trò, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với các công việc, điều này sẽ được thể hiện qua các hành vi của họ. Đây là một yếu tố rất quan trọng, nó đề cập đến những đức tính hay thái độ làm việc của nhân viên trong công ty. Một người dù có tài và có những kỹ năng đặc biệt, song họ sẽ không bao giờ có những đóng góp cho tổ chức khi họ có thái độ tiêu cực. Hay nói cách khác, đạo đức làm việc tác độn lớn tới hiệu quả công việc. Hơn nữa, đạo đức làm cho mọi người có thể tăng khả năng làm việc , vượt lên cả khả năng của chính bản thân họ.

Để phát triển nhanh và phát triển một cách bền vững, mỗi doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng nhân lực và phải có sự quan tâm, đầu tư đúng đắn để có thể phát huy tối đa nguồn nhân lực đó. Việc quản lý và sử dụng đúng nhân lực sau khi đã đào tạo, phù hợp với năng lực của mỗi cá nhân đáp ứng yêu cầu công việc cụ thể là yếu tố quyết định dẫn đến thành công cho doanh nghiệp.

1.1.3 Nâng cao chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp

Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Do vậy mà các doanh nghiệp luôn cố gắng tìm mọi cách để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo lợi thế cạnh tranh. Đầu tư vào con người luôn được xem là cách đầu tư khôn ngoan và hiệu quả, vì nó quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Có thể thấy rằng, nâng cao chất lượng nhân lực chính là nâng cao về mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ của người lao động.

Nhân tố con người có thể được coi là điểm mạnh hoặc điểm yếu của các doanh nghiệp. Do đó, ngoài những kiến thức chuyên môn, người lao động cần


phải được trang bị thêm các kỹ năng mềm cũng như kỹ năng thực hành nghề để đảm bảo có được việc làm và cơ hội thăng tiến trong tổ chức. Để hoàn thành được nhiệm vụ được giao đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, cần phải nâng cao chất lượng nhân lực như tăng cường sức mạnh và kỹ năng hoạt động sáng tạo, chính là năng lực thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa mỗi doanh nghiệp cần phải có chính sách nâng cao chất lượng nhân lực và phát huy tối đa nguồn nhân lực đó. Việc quản lý và sử dụng một cách hợp lý nhân lực đã được đào tạo sẽ phát huy tối đa năng lực của người lao động qua đó đóng góp tích cực cho sự thành công của doanh nghiệp. Tóm lại: “nâng cao chất lượng nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân của mỗi con người”.

Nâng cao chất lượng NNL về cơ bản là tăng giá trị cho con người trên các mặt cả về thể chất lẫn tinh thần và năng lực làm việc thông qua các chính sách phát triển NNL giúp con người có những năng lực, phẩm chất mới, cao hơn để có thể hoàn thành tốt mục tiêu của doanh nghiệp và cho chính cá nhân họ.

Nhân tố quan trọng nhất của doanh nghiệp chính là con người vì vậy nếu quản lý và sử dụng đúng cách những nhân lực đã qua đào tạo và phù hợp với năng lực của mỗi người phục vụ cho những công việc cụ thể sẽ mang đến thành công cho doanh nghiệp. Tóm lại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tăng cường sức mạnh về kiến thức, kỹ năng, thái độ của lực lượng lao động lên một trình độ nhất định để lực lượng này có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ đề ra trong một giai đoạn phát triển của một quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp.

Nâng cao chất lượng NL là hoạt động cần thiết đối với mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Để làm được việc đó, tổ chức doanh nghiệp cần tập trung nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự


bồi dưỡng và đào tạo lại; nâng cao thể lực thông qua chăm sóc sức khỏe, an toàn vệ sinh lao động; nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong công việc thông qua các đãi ngộ cả về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện về môi trường làm việc để người lao động phát huy hết khả năng, đem hết sức mình nhằm hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng doanh nghiệp phát triển .

1.2 Các tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực

1.2.1 Kiến thức của người lao động

Trình độ học vấn

Theo TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002) : “Trình độ học vấn là khả năng về tri thức và kĩ năng để có thể tiếp thu những kiến thức chuyên môn, kĩ thuật, sự hiểu biết về chính trị - xã hội. Trình độ học vấn được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân”.

Trình độ học vấn là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống. Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân.

Như vậy, trình độ học vấn của người lao động là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trí lực người lao động, là một trong những cơ sở để đánh giá chất lượng nhân lực nói chung. Nó là nền tảng kiến thức đầu tiên để người lao động có khả năng nắm bắt được những kiến thức chuyên môn kĩ thuật phục vụ trong quá trình lao động sau này. Nó cũng là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện đào tạo, tái đào tạo phục vụ cho hoạt động nâng cao chất lượng nhân lực của mình.

Nâng cao trình độ văn hóa không chỉ có ý nghĩa to lớn trong chiến lược phát triển nhân lực của cả quốc gia mà nó còn có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp nào có tỷ lệ lao


động tốt nghiệp cao đẳng, đại học, trên đại học,… càng lớn thì doanh nghiệp đó có trình độ trí lực càng cao.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Mỗi người lao động đều cần có chuyên môn nghiệp vụ để đủ năng lực, đủ khả năng hoàn thành tốt công việc của mình. Lúc đó nhiệm vụ công việc được giao có thể đạt được năng suất như ý muốn, có được hiệu quả cao từ đó công việc mới trở nên đơn giản và dễ dàng. Đối vời từng lĩnh vực, từng ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ có những yêu cầu bắt buộc riêng, cần đảm bảo đáp ứng đầy đủ và toàn diện.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn, nghề nghiệp nào đó. Đó cũng là trình độ được đào tạo ở các trường chuyên nghiệp, chính quy.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện yêu cầu công việc của vị trí đang đảm nhận.

Trình độ chuyên môn của NLĐ trong tổ chức là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng nhân lực, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra những điều kiện và khả năng để tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất kinh doanh, sáng tạo ra những sản phẩm mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của tổ chức đó nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung. Thực tế cho thấy, ở phần lớn các tổ chức NLĐ có trình độ chuyên môn cao thì tổ chức đó phát triển nhanh. Tuy nhiên, cũng có những tổ chức mặc dù NLĐ có trình độ chuyên môn cao nhưng chưa tận dụng hết được tiềm năng này nên tốc độ phát triển cũng như năng suất lao động của họ chưa cao, đó là do cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng nhân lực chưa được tốt.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 25/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí