5. Phương pháp nghiên cứu
(1)Phương pháp luận
Luận văn tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên những luận giải khoa học được chứng minh và diễn giải theo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC để làm rõ những vấn đề xung quanh chất lượng đội ngũ CBCC Cơ quan Bộ Xây dựng.
(2) Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập Thông tin.
+ Thu thập thông tin sơ cấp: Phỏng vấn, khảo sát nhu cầu của các CBCC trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, những hoạt động của CBCC muốn tham gia trong thực tế, nhận định về công tác phát triển đội ngũ CBCC của Cơ quan Bộ Xây dựng để tìm hiểu sự phù hợp khách quan, mong muốn của bản thân các cán bộ trong quá trình làm việc, từ đó tiếp thu những kinh nghiệm liên quan đến đối tượng trong quá trình làm việc, từ đó tiếp thu những kinh nghiệm liên quan đến đối tượng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
+ Dữ liệu thứ cấp: Tài liệu thứ cấp được công bố rộng rãi, bao gồm các văn bản: quy phạm pháp luật, các công trình nghiên cứu về vấn đề nhân lực của Ngành Xây dựng, tạp chí chuyên ngành, đề tài nghiên cứu khoa học, các thông tin trên phương tiện đại chúng. Các bản báo cáo, kế hoạch công tác hàng năm của các đơn vị trực thuộc Cơ quan Bộ Xây dựng.
- Phương pháp khảo sát
Trong phạm vi của vấn đề, học viên phỏng vấn, khảo sát các đối tượng trong phạm vi không gian, thời gian cụ thể như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Cơ quan Bộ Xây dựng - 1
- Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Cơ quan Bộ Xây dựng - 2
- Các Yếu Tố Cấu Thành Chất Lượng Đội Ngũ Công Chức
- Hoạt Động Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Công Chức
- Thực Hiện Chế Độ, Chính Sách Đối Với Công Chức
Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.
Địa điểm: Cơ quan Bộ Xây dựng
Đối tượng điều tra: CBCC của Cơ quan Bộ Xây dựng và người dân đến làm việc tại Cơ quan Bộ Xây dựng (Sử dụng mẫu bảng hỏi để lấy kết quả).
Số lượng phiếu điều tra: 50 phiếu (mẫu số 1) đối với người dân đến làm
việc tại Cơ quan Bộ Xây dựng; 30 phiếu (mẫu số 2) đối với CBCC của Cơ quan Bộ Xây dựng Nội dung điều tra: Ý kiến đánh giá về chất lượng đội ngũ CBCC và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC của Cơ quan Bộ Xây dựng.
Phương pháp điều tra: Phỏng vấn trực tiếp, thu thập thông tin thông qua hồ sơ, số liệu của Cơ quan Bộ Xây dựng, đồng thời phỏng vấn, khảo sát ý kiến của các đồng nghiệp trong Cơ quan Bộ Xây dựng và người dân tới làm việc tại phòng Thủ tục Hành chính - Một cửa, Văn phòng Bộ Xây dựng được kết quả chính xác nhất.
- Phương pháp phân tích so sánh: Được so sánh giữa các Bộ ngành khác về sự phát triển đội ngũ CBCC.
6. Những đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa luận
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chất lượng CBCC nói chung và CBCC Cơ quan Bộ Xây dựng nói riêng, từ đó góp phần làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận cho khoa học quản lý hành chính và khoa học quản lý nguồn nhân lực.
Luận văn xây dựng được khung lý thuyết để phân tích và đánh giá chất lượng CBCC của Cơ quan Bộ Xây dựng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng đã chỉ ra những điểm mạnh và những tồn tại, hạn chế trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức trong các đơn vị hành chính trực thuộc Bộ, trên cơ sở đó chủ động tham mưu cho Vụ Tổ chức cán bộ, Lãnh đạo Bộ về nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác quản lý công chức; các giải pháp nêu ra trong Luận văn sẽ là căn cứ khoa học, là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cơ quan Bộ Xây dựng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại cơ quan Bộ Xây dựng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công chức tại cơ quan Bộ Xây dựng.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Đội ngũ Công chức
Tại Việt Nam, khái niệm “Công chức” (CC) đã được đưa ra ngay từ khi hiến pháp năm 1946, đến nay qua nhiều lần sửa đổi, theo điều 4 tại Luật cán bộ công chức thì CC được hiểu như sau: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch - chức vụ - chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với CC trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [33, tr.1].
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội và chế độ chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà nội dung của khái niệm công chức được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Chúng ta biết rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước chủ yếu được vận hành thông qua nền công vụ và được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội. Những nhiệm vụ này do
chính cán bộ công chức các cấp thực hiện, không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân bên ngoài. Đội ngũ CBCC là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể và cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ hoạt động, vận hành có hiệu quả.
Để thực hiện công vụ, người công chức được Nhà nước cung cấp các điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều kiện làm việc…Họ được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng lương từ ngân sách từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách công việc, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp khác bằng tiền hoặc hiện vật và lương hưu khi đủ thời gian cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng.
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện quyền hành pháp của nhà nước để điều hành, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật, vì lợi ích của nhà nước và toàn xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức quản lý mang tính chất chuyên nghiệp, là những người thực hiện công vụ thường xuyên, liên tục, có trình độ chuyên môn và được đào tạo bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước ở các mức độ khác nhau.
Hơn nữa các chức năng cơ bản của cán bộ công chức là thực thi công vụ, thực thi quyền lực nhà nước, thực thi pháp luật; đây là một dạng lao động đặc thù và phức tạp không cho phép sai xót, không được vi phạm.
Đồng thời qua thực tiễn hoạt động, chính đội ngũ CBCC là lực lượng sáng tạo pháp luật, tham mưu đề xuất những chủ trương, chính sách, pháp luật, quản lý và phát triển xã hội, đất nước. Do vậy, CBCC phải am hiểu pháp luật, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ phải am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn của mình.
Tính chuyên nghiệp của công chức hành chính được quy định bởi địa vị pháp lý và được thể hiện qua 02 yếu tố; thời gian thâm niên công tác và trình
độ năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên mức độ chuyên nghiệp của người công chức. Thời gian, thâm niên công tác tạo điều kiện để công chức thành thạo công việc và đúc rút kinh nghiệm trong thực thi công vụ, còn trình độ hiểu biết pháp luật, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ tạo khả năng những nhiệm vụ được giao.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo quy định (thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển) được bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh theo quy định của Nhà nước. Họ được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Chính phủ quy định.
Đội ngũ công chức là khối đông người được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy củ, số đông người có cùng chức năng, cùng ngành nghề trong một tổ chức.Hiện nay, chưa có khái niệm riêng về đội ngũ công chức (ĐNCC) nhưng ĐNCC được hiểu là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động củanhà nước. Trên thế giới đến nay vẫn chưa có một quan niệm chung, thống nhất về công chức, nhưng tại nhiều quốc gia, dấu hiệu chung của CC thường là: “Công dân của nước đó, được tuyển dụng qua thi tuyển, được bổ nhiệm vào một ngạch hoặc một vị trí công việc; được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đảm nhiệm một công vụ nhất định”.
Trong bối cảnh thế giới với sự phát triển mạnh mẽ của trình độ KHCN và đất nước đang hội nhập sâu rộng với thế giới trên nhiều lĩnh vực, đội ngũ cán bộ công chức cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ công chức (ĐNCBCC) cần cónăng lực, trình độ chuyên môn giỏi thì mới có thể hoàn thành tốt công việc được phân công. Trình độ của mỗi công chức được đánh giá trên cơ sở khi đáp ứng được mọi yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đó. Cụ thể trong thời kỳ hiện nay khi KHCN ngày càng phát triển, CBCC phải có trình độ tiếp cận và sử dụng công nghệ hiện đại, làm chủ KHCN trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Qua đó có được kỹ năng tiếp cận và sử dụng những công nghệ mới phục vụ cho quá trình công tác.
Thứ hai, CBCC phải được trang bị văn hóa công sở cao, văn hóa chính trị, sắp xếp mọi việc khoa học, làm việc có trách nhiệm, hiệu quả, vì dân. Mỗi cán bộ, công chức phải có nhận thức rằng: “hành động của mình là phục vụ nhân dân”. Công cuộc cải cách hành chính đã được đẩy mạnh từ nhiều năm nay cũng là nhằm vào mục tiêu này. Lối làm việc tùy tiện, nặng về hành chính, quan liêu, hách dịch cửa quyền. Vì vậy, xây dựng văn hóa công sở tại cơ quan nhà nước, có tính kế hoạch, kỷ luật cao, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm là rất cần thiết.
Thứ ba, người cán bộ phải có bản lĩnh và bản lĩnh chính trị phải thật vững vàng. Bản lĩnh chính trị của người CB chính là yếu tố quan trọng, có bản lĩnh người CB sẽ không bị tác động, ảnh hưởng của những yếu tố tiêu cực. Đó là những cám dỗ từ mặt trái cơ chế thị trường, từ chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
1.1.2. Chất lượng đội ngũ công chức
Khái niệm “Chất lượng” là một phạm trù trừu tượng, nó mang tính chất định tính và khó định lượng, chúng ta không thể cân đo, đong đếm được. Vì vậy, mỗi cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về chất lượng cũng khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng được hiểu là: “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của mỗi con người, một sự vật, một sự việc” [40, tr.389].
Theo một cách hiểu khác thì: Chất lượng (CL) là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với sự vật khác. CL là đặc tính khách quan của sự vật, biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật.
Như vậy, chất lượng đội ngũ công chức được hiểu rằng: là khả năng giải quyết các vấn đề thuộc tất cả các lĩnh vực, khả năng thỏa mãn các yêu cầu của tổ chức, cá nhân (khách hàng) về cung ứng các dịch vụ hành chính. Tiêu chí
để đánh giá CLCBCC cũng rất đa dạng: có thể là tỷ lệ giải quyết hồ sơ đảm bảo đúng quy định về thời gian, quy trình, thủ tục; có thể là sự đo lường về mức độ thỏa mãn của người dân khi hưởng thụ dịch vụ hành chính liên quan đến các yếu tố như: sự hài lòng về thái độ phục vụ, sự hài lòng về thời gian giải quyết công việc của người dân…“CLĐNCC được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của ĐNCC, những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất đạo đức… của những người CC theo những tiêu chí nhất định đối với từng ngành nghề riêng biệt. Để đánh giá CLĐNCC, cần nói tới chất lượng của mỗi CC vì mỗi CC là một phần, là một bộ phận của ĐNCC.
Chất lượng công chức là tổng hợp những phẩm chất về sức khỏe, về trí tuệ khoa học,năng lực, chuyên môn nghề nghiệp, về phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, luôn gắn bó với tập thể, cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế,yêu cầu CL đối với công chức ngày càng cao, đòi hỏi người CC không những phải có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn CC mà còn phải gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật rất cao, có tư duy khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt, đồng thời luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Chất lượng đội ngũ CBCC là sức mạnh của tất cả các cá nhân trong tổ chức đặt trong mối quan hệ tác động qua lại tạo nên sức mạnh tập thể được xem xét cả về số lượng và chất lượng và cơ cấu hay thể hiện tính phù hợp thống nhất hợp tác, linh hoạt và hiệu quả nên lực cộng hưởng đáp ứng được nhu cầu, mục tiêu đặt ra. Trong tổ chức, chất lượng đội ngũ CBCC biểu hiện ở tính liên kết, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cá nhân thành một khối thống nhất cả về ý chí lẫn hành động hướng vào việc đạt mục tiêu của tổ