Thực Hiện Chế Độ, Chính Sách Đối Với Công Chức


Xây dựng nội dung kế hoạch dài hạn phát triển công chức bao gồm xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo

Xác định mục tiêu xây dựng và phát triển ĐNCC của thời kỳ (hoặc giai đoạn). Đây là nội dung quan trọng của việc xây dựng kế hoạch dài hạn. Nếu không xác định mục tiêu tổng thể, các mục tiêu cụ thể khoa học và sát với thực tiễn thì sẽ rất khó đề ra được các quan điểm chỉ đạo, các giải pháp, tổ chức thực hiện.

Mục tiêu tổng quát (phương hướng) là những vấn đề khái quát, bao trùm nhất, là tư tưởng, là "kim chỉ nam" xuyên suốt của quá trình xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch dài hạn ở tầm bao quát chung;

Mục tiêu và các chỉ tiêu cụ thể: là những nội dung cụ thể hoá từ mục tiêu tổng quát và được xác định một cách hết sức khoa học, chi tiết, sát với tình hình thực tế, và được tính toán cẩn thận, bàn bạc kỹ lưỡng phù hợp với toàn bộ nội dung của chiến lược, là những nội dung cần đạt được bằng các số liệu xác định;

Quan điểm chỉ đạo của kế hoạch dài hạn, đó là những quan điểm được quán triệt xuyên suốt nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch phát triển đội ngũ công chức ngành Xây dựng đã đưa ra.

Tổ chức thực hiện kế hoạch dài hạn,đây là nội dung quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng kế hoạch dài hạn phát triển đội ngũ công chức. Nội dung này quyết định sự thành công hay thất bại. Do đó, phần này thường được quan tâm xây dựng hết sức cụ thể, có phân công, phân nhiệm rõ ràng, có thời gian, sản phẩm phải hoàn thành...

Xây dựng chiến lược đội ngũ công chức làphải xây dựng được đội ngũ cán bộ vững mạnh; công tác cán bộ phải tuyển chọn, đào tạo và xây dựng từng công chức thực sự có năng lực, trí tuệ, đạo đức và tinh thần trách nhiệm; chấn chỉnh, xử lý, loại bỏ kịp thời những công chức có biểu hiện vi phạm, có hành vi nhũng nhiễu, vụ lợi.


Công chức càng có vị trí trọng trách lớn thì càng đòi hỏi cao về phẩm chất năng lực, trí tuệ, đạo đức, trách nhiệm, ý thức xã hội và tinh thầndântộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “muốn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy, xây dựng chiến lược trụ cột trong “cái gốc của mọi việc”, “cái gốc” đó có tốt hay không là do đội ngũ cán bộ cấp chiến lược quyết định. Chúng ta có xây dựng được một xã hội thực sự nhân văn, loại bỏ những tiêu cực trong xã hội hay không phụ thuộc có tính quyết định vào việc chúng ta có xây dựng được đội ngũ cán bộ cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.

Xây dựng tiêu chuẩn CC được dựa trên chức năng của mỗi bộ phận, mỗi vị trí trong bộ máy quản lý. Từ chức năng QLNN của mỗi bộ phận, người quản lý xây dựng những tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực cần có của mỗi vị trí công chức, mỗi loại công chức. Các tiêu chuẩn càng cụ thể, càng rõ ràng và đầy đủ, việc tuyển chọn, đánh giá, bố trí, sử dụng công chức sẽ dễ dàng hơn.

Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, công chức có những tiêu chuẩn như sau: Cán bộ công chức cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định đường lối của Đảng và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, của bản thân và của gia đình để chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Có lối sống lành mạnh, trung thực, không tham nhũng, không có biểu hiện tiêu cực, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, các tiêu cực, tệ nạn xã hội. iii) Có ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ, gần gũi quần chúng nhân dân, được quần chúng tín nhiệm. Chấp hành nghiêm chỉnh mọi việc được giao, sự điều động, phân công công tác của cấp có thẩm quyền, và thường xuyên học tập nâng cao trình độ kiến thức và trình độ chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.

Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Cơ quan Bộ Xây dựng - 6

Về tư tưởng chính trị,ĐNCC cần nắm vững các đường lối,chính sách pháp luật, chủ trươngcủa Đảng và Nhà nước, các kiến thức cơ bản về chuyên


môn có liên quan đến nghiệp vụ của mình phụ trách,có kiến thức tổng hợp, chủ động tham mưu đề xuất các ý kiến về chuyên môn nghiệp vụ với lãnh đạo và tổ chức triển khai thực hiện, năng lực chỉ đạo điều hành phối hợp các hoạt động trong cơ quan, đơn vị.

Về trình độ chuyên môn, có đủ tiêu chuẩn của ngạch công chức và được tuyển dụng theo quy định hiện hành (như Trung cấp, Đại học, Cao học...).

Đối với CC là cán bộ lãnh đạo, ngoài những tiêu chuẩn như trên còn có năng lực thực tiễn và thời gian công tác ở lĩnh vực mình phụ trách (thời gian làm việc ít nhất là từ ba năm trở lên, tùy theo chức vụ và lĩnh vực quản lý).

Xây dựng tiêu chuẩn CC là một trong những nội dung quan trọng trong công tác tổ chức CC và là căn cứ phục vụ cho việc nâng cao CLĐNCC của cả nước, từng địa phương, từng cơ quan, từng đơn vị.

1.3.2. Quy hoạch đội ngũ công chức

Quy hoạch công chức cũng là một bản kế hoạch phát triển CC mang tính ngắn hạn hơn, cụ thể hơn. Nó thường được xây dựng để thực hiện kế hoạch phát triển CC. Xây dựng quy hoạch CC, chủ thể quản lý cũng xác định các mục tiêu cần thực hiện trong từng thời kỳ cụ thể trong cả quá trình thực hiện kế hoạch dài hạn phát triển công chức. Các mục tiêu đó thể hiện tổng số lượng CC, số lượng CC cần có ở mỗi bộ phận, số lượng CC cần có của mỗi loại công chức ở mỗi thời kỳ. Cơ cấu CC cũng được thể hiện trong quy hoạch, đảm bảo sự phát triển đội ngũ về CC liên tục, không bị gián đoạn. Các mục tiêu về CC cũng thể hiện trình độ, năng lực của các loại CC cần có ở mỗi thời kỳ. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là, trong quy hoạch CC nói chung, quy hoạch quy hoạch ĐNCC lãnh đạo quản lý đòi hỏicó tính chất “động ” và “mở”. Mỗi vị trí lãnh đạo (tùy từng cấp) có thể được bố trí 2 đến 3 người. “Động” và “mở” có nghĩa là vị trí số 1, 2, 3 tại mỗi chức danh lãnh đạo có thể thay đổi, tùy thuộc vào sự phấn đấu, năng lực và sự tiến bộ của các cá nhân được quy hoạch vào các vị trí quy hoạch đó. Mặt khác, cá nhân được quy hoạch ở thời kỳ này, nhưng cũng có thể thay đổi bởi người khác, nếu họ không thể hiện được


năng lực, phẩm chất cần có ở vị trí quy hoạch đó.

Quy hoạch các chức danh lãnh đạo cũng đòi hỏi yêu cầu về cơ cấu, nhất là cơ cấu về độ tuổi. Điều đó đảm bảo tính liên tục của các thế hệ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy. Quy hoạch có thể thể hiện việc luân chuyển, điều động công chức giữa các bộ phận này. Điều này giúp cho việc luân chuyển, điều động cán bộ công chức được thực hiện có kế hoạch và chủ động. Xây dựng quy hoạch CC được xây dựng theo quy định chung của tổ chức đó, bảo đảm công khai, dân chủ, khách quan.

1.3.3. Tuyển chọn, điều động, luân chuyển công chức

Tuyển chọn công chức là việc lựa chọn công chức theo yêu cầu tiêu chuẩn chức danh đã được xác định cho từng vị trí mà họ công tác trong bộ máy quản lý. Nguồn để tuyển chọn là số công chức hiện có, số lực lượng lao động được đào tạo, có nhu cầu làm việc trong bộ máy quản lý. Như vậy tuyển chọn bao gồm việc lựa chọn công chức hiện có và tuyển dụng mới từ lực lượng lãnh đạo được đào tạo, ngoài bộ máy, có nhu cầu làm việc trong bộ máy. Tuyển chọn có thể được thực hiện thông qua lựa chọn trực tiếp hoặc thông qua thi tuyển.

Bố trí công chức là việc sắp xếp công chức đã được tuyển chọn vào các vị trí công tác phù hợp với chức năng của từng bộ phận, từng vị trí trong bộ máy. Việc bố trí công chức được dựa trên căn cứ, yêu cầu của vị trí làm việc trong bộ máy, phẩm chất, năng lực, trình độ của công chức đã được tuyển chọn. Việc bố trí công chức phù hợp sẽ bảo đảm phát huy năng lực, trình độ sở trường của công chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở từng vị trí. Theo đó, chức năng nhiệm vụ của bộ máy được thực hiện tốt. Việc bố trí công chức được thực hiện theo nguyên tắc xuất phát từ công việc để bố trí người, không vì người để tạo vị trí công việc mới.

Sử dụng CC là việc giao chức năng, nhiệm vụ cho công chức trong bộ máy. Chức năng, nhiệm vụ được giao rõ ràng, phù hợp, đảm bảo công chức có thể hoàn thành được nhiệm vụ một cách tốt nhất. Sử dụng công chức còn


là việc phân công công việc, nhiệm vụ cụ thể cho công chức trong từng việc cụ thể ở trong quá trình làm việc tại tổ chức. Sử dụng CC tốt sẽ khai thác năng lực tiềm năng của công chức vào việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy.

Điều động CC là để đáp ứng việc kiện toàn CBCC, quản lý ở một địa phương, đơn vị hoặc phục vụ cho một yêu cầu đột xuất, hoặc phân công bố trí lại cán bộ cho phù hợp với năng lực, sở trường. Việc điều động công chức thường được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, đánh giá đúng công chức, đúng nhu cầu nơi đi và nơi đến để đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Luân chuyển CC, chủ yếu là việc chuyển CC từ vị trí này sang vị trí khác nhằm rèn luyện, thử thách, đào tạo, bồi dưỡng công chức có triển vọng nhằm chuẩn bị cho những chức vụ lãnh đạo cao hơn, gánh vác những trọng trách lớn hơn. Nói cách khác, luân chuyển công chức là bố trí, thay đổi vị trí làm việc công chức theo quy hoạch một cách chủ động, có kế hoạch.

1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng công chức

Để nâng cao chất lượng cho đội ngũ CBCC thì một nhân tố không thể thiếu đó là công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực hành công việc. Đào tạo bồi dưỡng sẽ giúp cho đội ngũ CBCC cập nhật được những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp từ đó thực hiện nhiệm vụ tốt trong công việc mà tổ chức phân công, giúp họ thích ứng được với đòi hỏi, yêu cầu thay đổi của môi trường công việc và sự phát triển của tổ chức. Nhờ công tác đào tạo bồi dưỡng mà giúp cho họ có trình độ lý luận chính trị, nhận thức chính trị vững vàng, kiên định lập trường tư tưởng cách mạng, phát triển toàn diện cả về nhân cách, thể lực cũng như chuyên môn nghề nghiệp thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học, công nghệ và quản lý tiên tiến.

Đào tạo là “rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp vụ” [23], bồi dưỡng làlàm khoẻ thêm, mạnh thêm, làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ.


Đào tạo là quá trình trang bị một cách có hệ thống kiến thức cơ bản theo một chương trình có mục tiêu nhất định, nhằm hình thành và phát triển các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Đào tạo được xem là quá trình nâng cao năng lực theo tiêu chuẩn nhất định và giúp cho sự phân công lao động.

Bồi dưỡng là quá trình bổ sung, cập nhật, củng cố kiến thức hoặc tăng thêm kiến thức mới cho người học. Đây là quá trình làm cho công chức tăng thêm năng lực, phẩm chất. Bồi dưỡng là công việc được tiến hành sau đào tạo, là việc bổ sung thêm kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức trong quá trình làm việc trên nền tảng của tri thức đã được đào tạo: Thông thường, hoạt động đào tạo là một quá trình trang bị những kiến thức cơ bản mới hoặc một trình độ cao hơn nên thời gian đào tạo thường dài so với hoạt động bồi dưỡng. Thời gian của khoá đào tạo ít nhất từ một năm trở lên, còn hoạt động bồi dưỡng chỉ với mục đích bổ sung kiến thức hoặc cập nhật những vấn đề mới liên quan đến hoạt động của CBCC nên thời gian ngắn hơn từ một tuần đến ba tháng.

Nói cách khác, hoạt động đào tạo làm cho người công chức trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định, còn hoạt động bồi dưỡng làm tăng thêm năng lực, phẩm chất của CC.

Như vậy, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng là hai quá trình khác nhau nhưng đều có chung mục đích là cung cấp kiến thức cho người cán bộ để tăng cường năng lực và hiệu quả công tác. Để làm được các nhiệm vụ và quyền hạn của người công chức, thì phải có một trình độ nhất định về: Chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học, kỹ thuật, năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý và dân vận. Để có một trình độ nhất định thì đội ngũ công chứcphải chuẩn hoá trình độ được đào tạo và từng bước bồi dưỡng, nâng cao cái đã có.

1.3.5. Thực hiện chế độ, chính sách đối với công chức

Chế độchính sách đối với CC gồm chính sách về tiền lương, tiền thưởng


đối với đội ngũ này. Tiền lương và tiền thưởng vừa là thu nhập chính của công chứcvừa là thước đo năng lực, trình độ, thể hiện mức độ đóng góp, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của CC. Do vậy, chính sách đãi ngộ phù hợp sẽ là động lực để ĐNCC hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao. Bởi các chế độ đãi ngộ thỏa đáng luôn là yếu tố kích thích tạo động lực đối với CBCC; một mức lương cao và những quyền lợi được đảm bảo luôn thu hút cán bộ CC.

1.3.6. Công tác chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần đối với công chức

Có thể nói, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trong cơ quan thực hiện hiệu quả, góp phần nâng cao sức khỏe cho đội ngũ công chức, giúp cán bộ công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Định kỳ hàng năm, cơ quan tổ chức khám sức khỏe cho cán bộ công chức, tạo điều kiện cho công chức được thăm khám sức khỏe theo yêu cầu.

Để nâng cao sức khỏe cho ĐNCC trước hết phải quan tâm đến chăm sóc y tế, có chế độ thăm khám sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện tác nhân gây bệnh, suy giảm sức khỏe từ đó có các biện pháp điều trị kịp thời và bồi bổ để tăng cường sức khỏe. Lao động của ĐNCC là lao động trí óc, lao động tư duy, sáng tạo do đó cũng yêu cầu có điều kiện làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Vì vậy, phải quan tâm chăm sóc cả về đời sống vật chất và tinh thần, trong đó chú trọng các biện pháp về cải thiện sơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, các công cụ hỗ trợ cần thiết phục vụ cho công tác và sinh hoạt, cũng như có chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng nhằm động viên, khuyến khích tinh thần giúp cho cán bộ công chức, người lao động an tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho công việc và trách nhiệm được giao, đồng thời, cần được hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn, giáo dục về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cá nhân để họ biết cách tự chăm lo sức khỏe, giữ gìn và tăng cường thể lực, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao, có chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi hợp lý nhằm duy trì và nâng cao sức khỏe đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công việc.


Tóm lại: Để tăng cường yếu tố về thể lực, nâng cao sức khỏe cán bộ, công chức và các tổ chức có thể áp dụng nhiều biện pháp hữu hiệu, rất phong phú và đa dạng. Điều quan trọng là nhà nước, các cơ quan tổ chức và bản thân cán bộ, công chức phải nhận thức được đầy đủ ý nghĩa vai trò của việc chăm sóc, giữ gìn sức khỏe phục vụ cho công việc, trong đó có chính sách đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ công chức từ đó nâng cao toàn diện về sức khỏe.

1.3.7. Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo dức công vụ

Đạo đức công vụ là hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong hoạt động công vụ của CBCC nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách ứng xử, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của CBCC trong hoạt động công vụ.

Nâng cao đạo đức công vụ chính là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 khóa XII, thiết nghĩ các cấp, các ngành, đoàn thể cần thống nhất nhận thức về những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng hiện nay.

Cần liên tục giáo dục tính “cần, kiệm, liêm, chính” và trách nhiệm nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tế cho thấy, việc thường xuyên tuyên truyền, vận động, giáo dục, kịp thời khen thưởng, động viên CBCC tiên phong, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ được giao, có chính sách đãi ngộ hợp lý tương xứng rất quan trọng, nếu không thực hiện tốt rất dễ nảy sinh tư tưởng tham ô, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền...

Xem tất cả 157 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí