Cơ Sở Lý Luận Về Cấu Trúc Cạnh Tranh Ngành Và Năng Lực Cạnh Tranh


sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của mình đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế trong xã hội nhằm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

2.2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại

Trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền chuyển từ nhóm (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm này. Nếu dòng tiền dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp giữa hai nhóm bị giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian…Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại chính là một định chế tài chính trung gian thực hiện chức năng này. [15, tr.13-14]

Tạo phương tiện thanh toán: Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại nhưng các ngân hàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao


gồm: tiền giấy trong lưu thông (M0), số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng, tiền gửi trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.

Trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian trong thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia hiện nay. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán đã được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả. [15, tr.15-16]

2.3. Cơ sở lý luận về cấu trúc cạnh tranh ngành và năng lực cạnh tranh

2.3.1. Cơ sở lý luận về cấu trúc cạnh tranh ngành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Michael Porter là một tên tuổi lớn trong lĩnh vực chiến lược cạnh tranh. Trong hệ thống lý thuyết của mình, được trình bày chủ yếu trong hai cuốn sách nổi tiếng: Chiến lược cạnh tranh (Competitive Strategies) và Lợi thế cạnh tranh (Competitive Advantage).

Micheal Porter- Đại học Havard trong “Competitive Strategy”, New York, Free Press, 1980 đã đưa ra 5 yếu tố lực lượng quyết định mức độ cạnh tranh trong một ngành (hoặc trong một thị trường cụ thể) là:

Lý thuyết cấu trúc cạnh tranh ngành với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay - 4


- Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành

- Sức mạnh của những người cung ứng

- Sức mạnh của những người mua

- Mối đe doạ của những người gia nhập mới

- Mối đe doạ của những sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế

Cạnh tranh giữa các


đối thủ hiện tại


(Cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện tại)

Sức mạnh của người mua (Khách hàng vay tiền)

Mỗi lực lượng này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác mà bản thân các yếu tố đó cũng cần phải được nghiên cứu để tạo ra một bức tranh đầy đủ về sự cạnh tranh trong một ngành. Sự tác động qua lại giữa các lực lượng quyết định một ngành hấp dẫn như thế nào đối với các doanh nghiệp ở trong đó. Thực tế, giá trị của mô hình 5 lực lượng không phải ở chỗ cung cấp những dự đoán cho mỗi kiểu ngành mà ở chỗ cung cấp cho các nhà quản lý một danh mục đầy đủ có thể sử dụng để xác định những đặc điểm quan trọng nhất của sự cạnh tranh trong ngành. Các đặc điểm này tạo ra xuất phát điểm để các doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược cạnh tranh.


Mối đe dọa của những người gia nhập tiềm năng



Sức mạnh của người cung ứng (Khách hàng gửi tiền)


Các sản phẩm thay thế

Sơ đồ 2.1 : Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh

Nguồn: Porter,M.E (1980)


Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại

Đối thủ hiện tai của các ngân hàng thương mại chính là các ngân hàng trong hệ thống. Dựa trên phân tích của Porter chỉ ra các yếu tố xác định mức độ cạnh tranh của các đối thủ hiện tại như sau:

Tăng trưởng của ngành: Nếu ngành đang tăng trưởng nhanh thì mỗi doanh nghiệp có thể tăng trưởng mà không cần phải chiếm thị phần của các đối thủ do đó thời gian quản lý sẽ được dành cho việc duy trì sự tăng trưởng cùng với sự tăng trưởng nhanh của ngành chứ không phải là để dành để tấn công đối thủ. Như thế sự cạnh tranh trong ngành đang tăng trưởng sẽ ít căng thẳng hơn. Đối với ngành ngân hàng thì tốc độ tăng trưởng cao trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới do đó mức độ cạnh tranh không cao. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ngành ngân hàng phát triển chậm và suy giảm các ngân hàng thương mại cạnh tranh tăng dần lên.

Chi phí cố định cao: Chi phí cố định của các ngân hàng tương đối cao do vậy nếu không duy trì được lượng bán có thể gây ra sự sụt giảm lợi nhuận. Do đó các ngân hàng sẽ rất quan tâm đến việc duy trì lượng bán và có xu hướng giảm giá nếu họ cảm thấy có nguy cơ giảm lượng bán.

Dư thừa công suất không liên tục:Nếu một ngành trải qua những thời kỳ vượt công suất hoặc do cầu giao động hoặc vì tính kinh tế cuả qui mô đòi hỏi những bổ sung cho công suất là rất lớn thì sự cạnh tranh có xu hướng căng thẳng hơn.

Sự khác biệt về sản phẩm, sự xác định nhãn hàng và chi phí chuyển đổi của khách hàng: Đối với ngành ngân hàng thì sản phẩm, dịch vụ là tương đối giống nhau và khách hàng có thể chuyển từ người cung ứng này sang người cung ứng khác mà mất chi phí không cao do đó khách hàng sẽ rất nhạy cảm với giá và cầu về sản phẩm của mỗi ngân hàng sẽ rất co dãn dẫn đến cạnh tranh là rất căng thẳng. Điều này chỉ ra các ngân hàng để tăng lòng trung thành của khách hàng với sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mình cần tạo ra những sản phẩm khác biệt nhau đáng kể và gia tăng chi phí chuyển đổi của khách hàng.


Số các ngân hàng và quy mô tương đối của chúng: Nếu số các ngân hàng sản xuất các sản phẩm thay thế là tương đối lớn thì sẽ rất khó giám sát hoạt động của nhau và sẽ có nguy cơ là một số ngân hàng tin rằng mình có thể tiến hành cạnh tranh mà không bị phát hiện. Vì thế sự cạnh tranh có xu hướng căng thẳng. Số các ngân hàng mà nhỏ thì sự cạnh tranh sẽ ít hơn. Nhưng nếu các ngân hàng có cùng quy mô thì điều đó cũng làm tăng cạnh tranh và kết quả cũng không rõ ràng. Mức độ căng thẳng của cạnh tranh sẽ là thấp nhất trong các ngành có tương đối ít ngân hàng và một trong các ngân hàng đó mạnh hơn các ngân hàng khác.

Sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh: Nếu các đối thủ cạnh tranh có mục đích giống nhau, có văn hoá công ty giống nhau thì họ sẽ có xu hướng suy nghĩ theo cách giống nhau. Lúc đó có thể dự đoán cách thức mà mỗi ngân hàng sẽ phản ứng và nhất trí về một tập hợp các “qui tắc chơi” ngầm. Ngược lại, nếu không thế thì sự cạnh tranh sẽ có xu hướng căng thẳng hơn.

Lợi ích của ngân hàng: Sự cạnh tranh sẽ có xu hướng căng thẳng hơn nếu sự thành công của ngành ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt đối với các ngân hàng trong ngành, hoặc vì sự đóng góp của thành công đó cho lợi nhuận của các ngân hàng hoặc vì nó có một giá trị chiến lựơc nào đó đối với sự thành công của chúng.

Hàng rào rút khỏi cao: Nếu việc rút khỏi ngành phải chịu chi phí cao thì các doanh nghiệp sẽ thận trọng ở lại ngành và sự cạnh tranh sẽ có xu hướng căng thẳng. Chi phí của việc rút khỏi ngành có thể bao gồm các chi phí tài chính như trả lương thôi việc hoặc mất mát về giá trị của các tài sản chuyên môn hoá cao nhưng cũng có thể bao gồm các chi phí tâm lý như những người quản lý không sẵn sàng từ bỏ kinh doanh hoặc mất uy tín với chính phủ vì gây ra thất nghiệp. Thực tế cho thấy đối với ngành ngân hàng thì chi phí để rút ra khỏi ngành là cao do đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng có xu hướng gia tăng.

Mối đe doạ của những người gia nhập tiềm năng

Đối với việc tham gia vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới dẫn đến việc chia sẻ các nguồn lực và thị phần hiện có. Điều đó còn dẫn đến giá cả thị trường có thể giảm xuống và chi phí tăng lên làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.


Đối với các ngân hàng thương mại thì các đối thủ tiềm năng gồm: các công ty bảo hiểm; các quỹ đầu tư; các ngân hàng nước ngoài; các tổ chức tài chính phi ngân hàng;... Mối đe doạ của những người gia nhập tiềm năng được xác định bằng “độ cao của các hàng rào gia nhập”. Có thể thấy rào cản gia nhập của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng gồm có:

Tính kinh tế của quy mô: Nếu có tính kinh tế cuả quy mô đáng kể thì một doanh nghiệp đang cân nhắc xem có gia nhập ngành hay không hoặc là xây dựng một thị phần lớn ngay lập tức để đạt được quy mô cần thiết đảm bảo có chi phí thấp hoặc là chịu chi phí cao hơn các ngân hàng đang tồn tại. Do đó tính kinh tế của của quy mô là một nguồn gốc quan trọng của các hàng rào gia nhập.

Sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ: Một ngân hàng hoạt động lâu năm sẽ xây dựng được thương hiệu, chiếm lĩnh được lòng tin của khách hàng, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ chất lượng và tạo ra sự khác biệt sẽ hình thành rào cản đối với các đối thủ tiềm năng khi muốn gia nhập ngành.

Đòi hỏi về vốn: Đối với ngành ngân hàng nếu muốn gia nhập cần phải có một lượng vốn rất lớn. Nếu thị trường vốn hoạt động tốt và vốn sẵn có thì việc gia nhập khá mạo hiểm nên người đầu tư đòi hỏi lãi cao để thuyết phục họ chấp nhận rủi ro.

Chi phí chuyển đổi: Chi phí chuyển đổi có thể gồm có chi phí đầu tư cho công nghệ mới, chi phí cho thiết kế sản phẩm, chi phí thử nghiệm sản phẩm, chi phí đào tạo cán bộ, chi phí cho quảng bá sản phẩm... Đối với hoạt động ngân hàng thì chi phí này là tương đối lớn do đó những đối thủ gia nhập mới sẽ bị cản trở khi các chi phí tăng cao.

Có được các kênh phân phối: Người gia nhập mới phải thiết lập các kênh phân phối riêng của mình. Nếu các ngân hàng đang tồn tại đã xây dựng được các mối quan hệ tốt với các kênh phân phối thì người gia nhập mới khó mà đạt được các kênh đó hoặc đạt được với chi phí cao.

Lợi thế chi phí tuyệt đối: Lợi thế chi phí tuyệt đối là một nguồn gốc của hàng rào gia nhập - các ngân hàng đang ở trong ngành có chi phí thấp hơn những người mới gia nhập. Nếu có lợi thế này thì các ngân hàng đang ở trong ngành luôn luôn có


khả năng giảm giá của mình đến mức mà những người mới gia nhập không thể tồn tại được, điều đó làm giảm ý muốn gia nhập.

Sự trả đũa dự kiến: Sự trả đũa của các doanh nghiệp đang ở trong ngành đối với sự gia nhập mới là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của người mới gia nhập. Nếu các ngân hàng trong ngành chấp nhận thì người mới gia nhập sẽ có có hội thành công lớn hơn. Ngược lại nếu họ trả đũa quyết liệt thông qua giảm giá hay các chiến dịch quảng cáo xúc tiến bán hàng thì người mới gia nhập chỉ có thể tồn tại được nếu có những lợi thế to lớn để bù đắp sự thiếu kinh nghiệm trong ngành.

Chính sách của Chính phủ: Chính phủ có thể hạn chế hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường thông qua một số chính sách quản lý hoặc yêu cầu về cấp phép, yêu cầu về vốn, về các giới hạn an toàn đối với một ngân hàng thương mại...Vì vậy, đây là một rào cản lớn về mặt pháp lý đối với các đối thủ tiềm năng khi muốn gia nhập.

Mối đe doạ của các sản phẩm thay thế

Nếu các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế nếu các doanh nghiệp đang tồn tại đặt giá cao. Các yếu tố quyết định mối đe doạ này là:

 Giá và công dụng tương đối của các sản phẩm thay thế.

Nếu các sản phẩm thay thế mà sẵn có và công dụng tương đương ở cùng một mức giá thì mối đe doạ cuả các sản phẩm thay thế là rất mạnh.

+ Chi phí chuyển đổi với khách hàng

Nếu chi phí chuyển đổi đối với khách hàng cao thì khách hàng co xu hướng không thích chuyển đổi sản phẩm tiêu dùng

+ Khuynh hướng thay thế của người mua

Nếu khách hàng ít nỗ lực tìm kiếm các sản phẩm thay thế và không thích chuyển người cung ứng thì mối đe doạ thay thế sẽ giảm.

Khi thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu dịch vụ mới thay thế cho các sản phẩm, dịch vụ truyền thống. Đối với hoạt động gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng có thể sử dụng các hình thức khác để tối đa hóa


nguồn tiền nhàn rỗi như: đầu tư vàng, chứng khoán, thị trường bất động sản hay các quỹ đầu tư...Còn đối với đối tượng vay vốn ngân hàng thì có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán hay thuê mua tài chính.

Sức mạnh của người mua

Các yếu tố quyết định sức mạnh của người mua gồm:

 Độ nhạy cảm đối với giá, nó là hàm số của các yếu tố sau: Về bản chất độ

nhạy cảm của giá đối với giá chính là độ co dãn của cầu. Nó là một hàm số của

 Lượng mua của ngành là một phần của tổng lượng mua: nếu sản phẩm của ngành tạo nên một phần không đáng kể trong tổng lượng mua của những người sử dụng thì họ có xu hướng không nhạy cảm đối với giá của nó, như vậy nó sẽ ít ảnh hưởng đến chi phí của họ.

 Những khác biệt của sản phẩm của ngành ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của khách hàng: nếu sản phẩm của ngành là là yếu tố then chốt trong viêc duy trì chất lượng sản phẩm của khách hàng thì chắc chắn họ không nhạy cảm đối với giá.

 Tỷ lệ lợi nhuận của khách hàng: những khách hàng có tỷ lệ lợi nhuận cao sẽ ít nhạy cảm với giá.

 Những khác biệt sản phẩm và sự xác định nhãn hàng

 Động cơ người ra quyết định

 Việc mặc cả chịu: Mức độ mà người mua có thể thực hiện việc mặc cả chịu cũng phụ thuộc vào.

- Sự tập trung của người mua và dung lượng của người mua: người mua càng tập trung mà mua dung lượng càng lớn thì sẽ có khả năng chịu nhiều hơn.

- Chi phí chuyển của người mua: chi phí càng cao thì người mua sẽ ít khả năng chịu hơn vì họ sợ công việc kinh doanh của họ ở nơi khác sẽ có độ tin cậy thấp hơn.

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí