Vấn Đề Chia Sẻ Lợi Nhuận Và Tổn Thất Đối Với Những Khoản Nợ Quá Hạn Tồn Đọng Được Chuyển Giao

Danh mục tài sản chuyển giao được căn cứ vào đối tượng vay cá nhân hay doanh nghiệp, doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp dân doanh.

Danh mục tài sản chuyển giao căn cứ vào hình thức của khoản vay: vay chính sách, vay thương mại, vay tiêu dùng, vay bắt buộc thanh toán L/C;

Danh mục tài sản chuyển giao căn cứ số lượng ngân hàng cho vay: vay đồng tài trợ, vay hợp vốn.

Danh mục tài sản chuyển giao căn cứ giá trị của khoản vay: chỉ cho phép chuyển giao những khoản nợ có giá trị lớn đến mức độ nhất định


Việc lựa chọn nội dung chuyển giao thích hợp phù thuộc chặt chẽ vào mục tiêu của các ngân hàng. Ví dụ, việc chuyển giao các khoản nợ cá nhân chỉ có ý nghĩa khi ngân hàng thực hiện việc chuyển giao có ít kinh nghiệm về thu hồi các khoản nợ cá nhân và đang tìm kiếm những tổ chức độc lập để trợ giúp; khi ngân hàng thực hiện việc chuyển giao có ý định gộp chúng thành “gói” và bán chúng.


Bên cạnh đó, việc quy định tỷ lệ phần trăm (%) nợ quá hạn, giá trị tài sản

được ngân hàng chuyển giao cho công ty quản lý nợ cũng rất quan trọng. Bởi lẽ, phần lớn các ngân hàng đều mong muốn dồn tất cả các khoản nợ quá hạn tồn đọng vào công ty quản lý nợ để làm sạch bảng tổng kết tài sản. Hiện nay, vấn đề này vẫn

đang được pháp luật Việt nam “trống”. Thực tế, một số ngân hàng quốc doanh đã có ý kiến “giá trị nợ quá hạn và tài sản đảm bảo kèm theo chuyển cho công ty quản lý nợ bao nhiêu thì được coi là bấy nhiêu vốn mà ngân hàng “mẹ” cấp cho. Công ty này không cần được cấp vốn ban đầu từ bất cứ nguồn nào khác, trừ số tài sản đảm bảo được bàn giao để quản lý.” (1)

Ngoài ra, khi nghiên cứu tình hình thực tế Việt nam, các chuyên gia nước ngoài đã khuyến nghị Chính Phủ Việt nam cho phép “Ngân hàng thương mại nhà nước sẽ thành lập một công ty quản lý tài sản (AMC) độc lập với hoạt động của ngân hàng đó nhưng vẫn chịu sự kiểm soát của ngân hàng và một Đơn vị xử lý nợ (LWU) thuộc Phòng Tín dụng của mỗi ngân hàng. Các khoản nợ quá hạn có tài sản thế chấp sẽ được chuyển sang để công ty quản lý tài sản thu nợ, trong khi việc các khoản nợ không có tài sản thế chấp sẽ do các Đơn vị xử lý nợ tiến hành”(2).

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc hạn chế các loại tài sản được chuyển giao, tỷ lệ nợ quá hạn được chuyển giao (thay vì chuyển giao toàn bộ) sẽ giúp các công ty quản lý nợ hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc quy định một số tiêu chí nhất định sẽ giúp công ty quản lý nợ có điều kiện thực hiện các nghiệp vụ một cách chuyên sâu hơn trong khi phải cố gắng tối đa hoá khả



(1)PTS. Cầm Hiếu Kiên, Xử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản nợ đóng băng của ngân hàng, Tạp chí ngân hàng, số chuyên đề, 12/1998, tr. 31

(2)Các khuyến nghị về cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước do đoàn cán bộ Vụ Tiền tệ và Ngoại hối, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) xây dựng

năng thu nợ nhằm đẩy nhanh quá trình thu hồi nợ.


3.2.2 Hình thức chuyển giao nợ quá hạn tồn đọng


Hiện nay, pháp luật Việt nam về vấn đề này cũng không rõ ràng. Cụ thể, tại

Điều lệ mẫu chỉ quy định chung công ty quản lý tài sản được “Tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng (bao gồm: nợ có tài sản đảm bảo và nợ không có tài sản đảm bảo) và tài sản đảm bảo nợ vay (tài sản thế chấp, cầm cố; tài sản gán nợ; tài sản Toà

án giao ngân hàng) liên quan đến các khoản nợ để xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất” (Khoản 1 Điều 10). Công ty quản lý tài sản được “Mua bán nợ tồn đọng của các tổ chức tín dụng khác, của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 7 Điều 10), nhưng trong Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 tại Điều 3 không có tên công ty quản lý nợ trong danh mục đối tượng tham gia mua, bán nợ. Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN- BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001, quy định “Tổ chức tín dụng có quyền chuyển giao quyền thu nợ hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba (gồm công ty quản lý nợ) xử lý tài sản đảm bảo” (Điều 3 Phần A). Tuy nhiên, cơ chế tài chính của việc “chuyển giao” không được thông tư này đề cập đến.


Ngoài ra, việc xác định rõ cơ chế chuyển giao còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá cả khi chuyển nhượng, phí uỷ quyền khi uỷ quyền, phương thức hạch toán của ngân hàng và công ty quản lý tài sản.


Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định hai hình thức chuyển giao là mua bán và uỷ quyền. Việc góp vốn thành lập công ty quản lý nợ bằng quyền đòi nợ là không nên vào lúc này. Bởi lẽ, quy định này chỉ làm cho các công ty quản lý nợ đã yếu (xét

dưới góc độ tài chính) lại càng yếu hơn, khiến các công ty không có đủ nguồn vốn

để sửa chữa, nâng cấp tài sản, tái cơ cấu lại các khoản vay.


Thực tế ở Thái Lan, Mỹ cho thấy, công ty quản lý nợ của nhà nước chỉ thực hiện việc mua lại tài sản từ các ngân hàng khi những ngân hàng này bị giải thể hoặc hợp nhất và khi đó, Nhà nước sẽ trở thành chủ sở hữu hoặc có quyền kiểm soát. Chính phủ các nước Indonexia, Malaysia, Hàn Quốc và Mexico lại thông qua công ty quản lý tài sản giúp đỡ các ngân hàng đang hoạt động giải quyết khó khăn bằng cách mua lại những khoản nợ quá hạn tồn đọng của các ngân hàng này. Trường hợp ngân hàng mua bán nợ quá hạn tồn đọng với nhau và với công ty quản lý nợ của các ngân hàng khác được thực hiện khá đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên, vấn đề sẽ chỉ phức tạp hơn khi việc mua bán diễn ra giữa các ngân hàng, các công ty quản lý nợ của ngân hàng với công ty quản lý nợ của Nhà nước. Bởi, khi đó có thể phát sinh mâu thuẫn giữa nguồn tài chính có hạn và việc mua tài sản một cách công bằng từ tất cả các ngân hàng. Việc nhà nước mua tất cả nợ quá hạn tồn đọng có thể làm tổn hại

đến sự cạnh tranh công bằng của một số ngân hàng vẫn cố gắng xoay xở để tự xử lý những khoản nợ quá hạn của mình. Cách giải quyết tốt nhất trong trường hợp này là Chính phủ một số nước, thông qua công ty quản lý nợ của nhà nước, chỉ mua những khoản nợ xấu từ những ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, những ngân hàng cần sự giúp đỡ của nhà nước chứ không mua tất cả các khoản nợ quá hạn. Các ngân hàng

được Chính phủ giúp đỡ phải giữ lại một tỷ lệ nợ quá hạn tương tự vẫn đang tồn tại của ngành.


3.3. Vấn đề chia sẻ lợi nhuận và tổn thất đối với những khoản nợ quá hạn tồn đọng được chuyển giao

Một vấn đề khác có liên quan chặt chẽ đến nội dung được ngân hàng chuyển giao mà pháp luật Việt nam vẫn chưa quy định là nguyên tắc, chuẩn mực hay cơ chế xác định giá cả của những khoản nợ quá hạn đó. Đây cũng là một nội dung quan trọng quyết định sự thành công của công ty quản lý nợ.


Về nguyên tắc, giá cả xoay quanh giá trị của hàng hoá và do thị trường quyết

định. Giá chuyển nhượng của khoản nợ quá hạn cũng do thị trường quyết định theo quy luật cung-cầu. Bên cạnh đó, nó còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố khác như các quy tắc, chuẩn mực kế toán; các tiêu chuẩn phân loại khoản vay; các quy định về dự phòng rủi ro… Các yếu tố này giúp cho công ty quản lý nợ dự đoán chính xác

những tổn thất có thể xảy ra đối với khoản nợ. Thông thường, thật khó xác định chính xác giá cả của những khoản nợ quá hạn được chuyển giao, đặc biệt vào thời

điểm xảy ra khủng hoảng tài chính, ngay cả quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong khi, thị trường vốn và các thị trường đặc biệt khác (bất động sản, mua bán nợ…) ở Việt nam chưa phát triển hoặc đang ở giai đoạn thử nghiệm thì việc xác

định giá cả gần đúng của các khoản nợ quá hạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không quy định rõ những nguyên tắc, chuẩn mực như dựa trên cơ sở khả năng khôi phục, sự dự đoán luồng tiền và đánh giá tài sản đảm bảo.


Công ty quản lý tài sản Danaharta-Malaysia: Danaharta chỉ mua các khoản nợ quá hạn (gồm nợ gốc, nợ lãi trong hạn và quá hạn và các khoản phí khác) có giá trị 5.000.000 RM trở lên. Giá mua được dựa trên giá thị trường do Danaharta định giá được điều chỉnh theo nguyên tắc sau:

Trường hợp

Giá mua của Danaharta

Nếu giá thị trường lớn hơn (>) hoặc bằng (=) giá trị khoản vay

Giá trị khoản vay

Nếu giá thị trường lớn hơn (>) hoặc bằng (=) nợ gốc nhưng nhỏ hơn (<) giá trị khoản vay

Giá thị trường

Nếu giá thị trường nhỏ hơn (<) nợ gốc.

Nợ gốc, nhưng Danaharta chỉ trả ở mức thị trường. Phần còn lại sẽ trả khi Danaharta thu hồi được khoản nợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Một số vấn đề pháp lý về công ty quản lý nợ - 9


Công ty quản lý tài sản KAMCO-Hàn Quốc: Giá mua các khoản nợ quá hạn

được xác định dựa trên cơ sở thị trường, các giao dịch trước đó và giá tiêu chuẩn được đưa ra bởi Ban Thẩm định Hàn Quốc. Nguyên tắc của việc định giá mua các khoản nợ quá hạn là:

Các khoản nợ quá hạn có đảm bảo: Cộng trừ một khoản điều chỉnh vào giá trị tài sản thế chấp rồi nhân với tỉ lệ đấu thầu trung bình.

Các khoản nợ quá hạn không có đảm bảo: 3% của khoản nợ gốc chưa thanh toán.


Trong trường hợp việc xác định giá trước đó gặp khó khăn thì phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán nợ được xử lý sau.


Phân loại

Giá dự kiến

(áp dụng trước tháng 9/98)

Mua theo tỉ lệ cố định

(áp dụng sau tháng 9/98)

Khoản

vay

đảm

70%-75% giá trị tài sản

-45% giá trị tài sản thế

thường

bảo

thÕ chÊp hỵp lƯ

chấp tồn tại




-45% giá trị tài sản thế




chÊp hỵp lƯ


Không

-Khã

đòi:

10%-20%

3% số dư nợ gốc


đảm bảo

mệnh giá khoản vay




-Khụng có khả năng thu




hồi:

1%-3%

mệnh giá




khoản vay


Khoản

vay

đảm

70%-75% giá trị mệnh

28.2% giá trị tài sản thế

cđa

doanh

bảo

giá

chÊp hỵp lƯ

nghiệp

phải




cơ cấu lại





Khụng bảm bảo

20%-60% giỏ trị mệnh giỏ

3% số dư nợ gốc

Thuê chính

tài



50% số dư nợ gốc


Công ty quản lý tài sản TAMC-Thái Lan: Nợ quá hạn được chuyển giao cho TAMC theo giá trị ròng ghi sổ vào thời điểm 31/12/2000. Giá trị ròng ghi sổ là giá trị khoản nợ gốc chưa trả và 03 tháng nợ lãi cộng dồn. TAMC mua nợ quá hạn từ các ngân hàng ở mức 40%-60% so với mệnh giá. Việc định giá các khoản nợ quá hạn của các ngân hàng tư nhân dựa trên cơ sở mệnh giá trừ mức dự phòng bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Trung ương Thái Lan.


Nếu không có những nguyên tắc xác định giỏ chuyển nhượng hợp lý sẽ có thể xảy ra những trường hợp sau:

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại (cả quốc doanh và cổ phần) sẽ thành lập các công ty quản lý nợ như những công cụ thông qua đó ngân hàng thu hồi vốn bằng cách tăng giá giả tạo các phần vốn của họ và chuyển nhượng cho công ty quản lý nợ những khoản nợ quá hạn với giá cao hơn giá thị trường.


Thứ hai, các công ty quản lý nợ không phải là một công cụ để Nhà nước trợ giúp các ngân hàng thông qua việc mua lại những khoản nợ quá hạn với giá cao hơn giá thị trường. Việc làm như vậy sẽ che đậy thực trạng yếu kém về tài chính, sẽ vi phạm nguyên tắc minh bạch và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng trong suốt quá trình hoạt động. Thêm vào đó, khi giá chuyển nhượng cao hơn giá thị trường sẽ làm cho các ngân hàng có thể kết thúc việc bán một khối lượng lớn những khoản nợ quá hạn cho công ty quản lý nợ mà không mảnh may suy nghĩ đến những tổn thất và trách nhiệm mà họ đã gây ra cho xã hội.


Thứ ba, việc xây dựng mô hình xác định đúng đắn giá trị thực của khoản nợ quá hạn sẽ giúp cho ngân hàng và công ty quản lý nợ có được sự ước tính hợp lý về nhu cầu vốn trong tương lai của mình.


Thông thường, các ngân hàng muốn chuyển giao theo giá trị sổ sách, tức là giá trị của khoản nợ (gốc và lãi) trên cơ sở hợp đồng tín dụng hoặc theo giá trên hợp

đồng tín dụng sau khi trừ đi khoản dự phòng, để tránh tổn thất khi chuyển giao. Giá trị này có thể được điều chỉnh bởi một số yếu tố như có bảo đảm hay không bảo

đảm, loại tài sản đảm bảo, khả năng chuyển nhượng của tài sản đảm bảo. Đối với các công ty quản lý nợ thì điều này quả là không hợp lý.


Một cách xác định khác, khoản nợ được chuyển giao với một mức giá khởi

điểm mang tính tượng trưng, giá cuối cùng sẽ được quyết định sau khi giá trị của tài sản được đánh giá cụ thể bởi các chuyên gia tư vấn hoặc đã được bán. Đây là cách giải quyết tốt nhất, để xử lý mức chênh lệch giữa giá chuyển giao và giá bán thực tế sau đó.


Ngoài ra, Nhà nước nên cho phép thành lập một số công ty hay trung tâm có chức năng định giá độc lập. Các công ty hoặc trung tâm này sẽ công bố phương pháp

định giá, chọn và công bố tỷ giá, thực hiện các nghiên cứu chuyên môn đặc biệt liên quan đến việc chuyển nhượng nợ. Đây sẽ là bên thứ ba giúp các ngân hàng và công ty quản lý nợ xác định giá trị gần đúng của khoản nợ được chuyển giao. Trường hợp

đặc biệt, bên thứ ba sẽ là trọng tài giải quyết tranh chấp về giá giữa bên bán và bên mua nợ.

3.4 Vấn đề tài trợ cho khách hàng để cơ cấu lại khoản vay


Đối với những khách hàng còn khả năng trả nợ nhưng gặp khó khăn nhất thời, công ty quản lý nợ được quyền cơ cấu lại khoản nợ bằng các biện pháp giãn lịch trả nợ, gia hạn thời gian trả nợ, miễn hoặc giảm nợ lãi, cho vay mới (đầu tư thêm), chuyển đổi nợ thành vốn góp.


Các ngân hàng khi cho khách hàng vay vốn phải tuân thủ các quy định của Luật Các Tổ chức Tín dụng như hình thức hợp đồng tín dụng (Điều 51); bảo đảm tiền vay (Điều 52); lãi suất cho vay; chấm dứt cho vay, xử lý nợ, điều chỉnh lãi suất (Điều 54); Lưu trữ hồ sơ khoản vay (Điều 55); Giới hạn cho mức cho vay tối đa đối với một khách hàng (Điều 79); Những trường hợp không được cho vay (Điều 77) và Những trường hợp hạn chế cho vay (Điều 78)… Các quy định này được cụ thể hoá tại Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt nam.


Khi xem xét giảm hoặc miễn nợ lãi cho khách hàng, các ngân hàng căn cứ vào Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt nam để quyết định những trường hợp được miễn, giảm lãi; căn cứ miễn giảm lãi; tỷ lệ miễn lãi và thẩm quyền miễn giảm lãi.


Khi đầu tư góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp khác, các ngân hàng phải tuân theo Điều 69 Luật Các Tổ chức Tín dụng và Quy định việc góp vốn mua cổ phần ban hành kèm theo Quyết định số 492/2000/QĐ-NHNN5 ngày 28/11/2000 của Thống đốc NHNN Việt nam tỷ lệ góp vốn tối đa, thẩm quyền quyết định, cách hạch toán giảm vốn điều lệ.


Ngoài ra, trên cơ sở mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh tiền tệ, các tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng theo Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 và duy trì các tỷ lệ an toàn theo Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN Việt nam.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể hay một cơ chế tài chính nào ràng buộc đối với những hoạt động này của công ty quản lý nợ. Điều này dẫn đến tình trạng công ty quản lý nợ không thể quyết định miễn hoặc giảm nợ lãi; tái đầu tư; chuyển nợ thành vốn góp cho những khách hàng còn khả năng trả nợ,

đồng thời, các cơ quan Nhà nước sẽ gặp khó khăn khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước.


Theo chúng tôi, trước hết liên quan đến hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay, an toàn tín dụng, hiện pháp luật Việt nam (gồm văn bản Luật, Nghị định và các thông tư hướng dẫn) quy định khá đầy đủ, chi tiết. Nhà nước không cần ban hành mới, chỉ cần yêu cầu các công ty quản lý nợ chấp hành nghiêm chỉnh quy định này. Nếu không những khoản nợ quá hạn cũ không có khả năng thu hồi, nhiều khoản nợ quá hạn mới lại phát sinh. Thứ hai, liên quan đến việc miễn, giảm nợ lãi, chuyển nợ vay thành vốn góp, chúng ta có thể dựa trên các quy định hiện hành đối các ngân hàng (hạch toán kế toán, công tác kiểm tra kiểm toán …) nhưng có cơ chế mềm dẻo, phù hợp với đặc thù của hoạt động cho vay để tái cơ cấu nợ như nới lỏng về tỷ lệ vốn góp, tăng quyền tự quyết của công ty quản lý nợ, mở rộng đối tượng được xem xét (đối với trường hợp miễn giảm lãi), tập trung hướng đầu tư nước ngoài vào các tài sản nợ có giá trị cao, các tài sản có giá trị nhỏ ưu tiên các nhà đầu tư trong nước …).

3.5. Các chính sách ưu đãi về tài chính & thuế


Trong các nội dung cần phải chi phí thì chi phí cho việc cung cấp vốn cho khách hàng như một phần của quá trình tái cơ cấu, chi phí để cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản đảm bảo chiếm tỷ lệ lớn nhất. Để làm tốt việc này đòi hỏi các công ty quản lý nợ phải có nguồn tài chính đủ mạnh. Tài chính của công ty quản lý nợ được hình thành từ nguồn bên trong (vốn điều lệ, các quỹ) và nguồn bên ngoài (đi vay, kêu gọi tài trợ). Với số nợ đọng hiện nay, mỗi công ty quản lý nợ cần có vài trăm tỷ

đồng để hoạt động hiệu quả. Trong khi, vốn điều lệ các công ty quản lý nợ hiện nay

được cấp khá khiêm tốn từ 10-30 tỷ đồng Việt nam. Như vậy, số tiền còn thiếu chắc chắn công ty quản lý nợ phải đi vay từ các nguồn khác.


Vấn đề đặt ra, chi phí của những khoản vốn đi vay liệu có cao hơn mức thông thường của những khoản vay thương mại và có kèm theo những đòi hỏi chặt chẽ về tài sản đảm bảo không? Trong khi hoạt động của các công ty quản lý nợ luôn tiềm ẩn mức độ rủi ro cao, nhưng không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận mà chỉ nhằm

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 20/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí