Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, giám sát hoạt động của công ty;
Quyền và nghĩa vụ của cổ đông (thành viên công ty), cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền đó của họ;
Quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm của người quản lý, giám sát doanh nghiệp;
Cơ chế giám sát các hành vi của người quản lý nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực đối với các nguồn lực của công ty vì mục đích tư lợi;
Quy trình và thể thức ra quyết định công ty.
Các nội dung này được điều chỉnh khác nhau và tương thích với từng loại hình công ty. Đối với các loại hình công ty đối nhân (theo cách phân loại của hệ thống Civil Law), nhân thân (danh) của thành viên công ty là căn cứ cơ bản để xác định vị trí, vai trò của họ trong việc tổ chức quản lý công ty, chứ không phải dựa vào quy mô giá trị phần vốn góp. Dễ thấy nhất, đối với loại hình công ty hợp vốn đơn giản, người được quản lý và ra quyết định công ty là thành viên hợp danh, chứ không phải là thành viên góp vốn (nguyên tắc đối nhân). Tương ứng với quyền đó, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn trong khi thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn. Trái lại, đối với các loại hình công ty đối vốn, mối liên hệ giữa các thành viên công ty liên quan đến vấn đề tổ chức quản lý công ty dựa trên căn cứ chủ yếu là quy mô giá trị phần vốn góp của mỗi thành viên trong vốn điều lệ của công ty (nguyên tắc đối vốn). Việc ra quyết định quan trọng nhất của công ty cũng dựa trên tỷ lệ giá trị phần vốn góp của người biểu quyết. Nhìn chung, ứng với mỗi hình thức pháp lý khác nhau là một mô hình pháp lý về tổ chức quản lý công ty (mô hình quản trị) khác nhau.
1.2.2. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc khi xây dựng quy chế pháp lý về quản trị công ty
Đảm bảo tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của công ty
Đây là yêu cầu xuất phát từ quyền Hiến định cơ bản của công dân và nguyên tắc phát triển của kinh tế thị trường - nguyên tắc tự do kinh doanh.
Với yêu cầu này, việc tổ chức quản lý nội bộ công ty trước hết và chủ yếu thuộc quyền quyết định của chủ đầu tư. Pháp luật không cần thiết phải can thiệp quá sâu và quá chi tiết vào các quan hệ nội bộ của công ty. Sự can thiệp quá mức cần thiết của pháp luật vào các quan hệ này đôi lúc lại phản tác dụng, tạo sự cứng nhắc và kém linh hoạt cho hoạt động quản trị của công ty. Do vậy, pháp luật chỉ nên quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên tắc, xác lập “khung pháp lý” cho việc tổ chức quản lý công ty. Với cách tiếp cận này, chế định quản trị công ty trong nền kinh tế thị trường chứa đựng phần lớn là các quy phạm mang tính tùy nghi, các công ty có thể tự do lựa chọn áp dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay - 1
- Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay - 2
- Mô Hình Quản Trị Công Ty Của Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới Và Các Khuyến Nghị Của Tổ Chức Hợp Tác Và Phát Triển Kinh Tế Thế Giới (Oecd) Về Quy
- Thực Trạng Pháp Luật Về Quản Trị Công Ty Ở Việt Nam Hiện Nay
- Mỗi Cổ Đông Có Quyền Sử Dụng Tất Cả Số Phiếu Bầu Nói Tại (1) Để Bầu Một Hoặc Một Số Người Làm Thành Viên Hđqt. Trong Trướng Hợp Bầu Một Số
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Tuy nhiên, bên cạnh đó không thể thiếu những quy phạm bắt buộc về một số vấn đề nhất định. Những quy phạm bắt buộc này có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với việc bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư thiểu số và các chủ thể có liên quan, đồng thời ngăn chặn tính tư lợi, cơ hội của người quản lý công ty đối với chủ đầu tư, cũng như của chủ đầu tư đa số đối với chủ đầu tư thiểu số và các chủ thể khác có liên quan.
Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và phù hợp với môi trường kinh doanh
Về mặt lý luận, nguyên tắc cơ bản của việc thiết lập khung pháp lý quản trị công ty là hướng tới hình thành một môi trường quản trị công ty tương thích với các giá trị xã hội [23, tr.54]. Đó là môi trường cho phép các công ty có thể linh hoạt cạnh tranh với những biến đổi nhanh chóng của các lực lượng thị trường, mà vẫn đảm bảo được các chuẩn mực xã hội và truyền thống văn hóa kinh doanh. Vì thế, chế định quản trị công ty cần đảm bảo tính thích nghi của cơ cấu quản trị công ty với truyền thống văn hóa kinh doanh và những thay đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế.
Thêm nữa, có thể thấy rằng, không có một cơ cấu quản trị nào thích ứng tuyệt đối với tất cả các hình thức liên kết hay tất cả cơ cấu sở hữu [23, tr10]. Do vậy, mức độ ràng buộc của pháp luật đối với việc tổ chức quản lý công ty
cũng phải có sự khác nhau giữa các loại hình công ty, phù hợp với cấu trúc vốn và cơ cấu thành viên của công ty. Nói chung, chế định quản trị công ty cần đảm bảo tính thích nghi của cơ cấu quản trị công ty với điều kiện tồn tại và phát triển của chúng. Đây cũng chính là yêu cầu thứ hai về việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ quản trị công ty.
Đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các chủ thể có liên quan tới quản trị công ty
Sự ra đời và tồn tại của chế định quản trị công ty gắn liền với nhu cầu huy động vốn, giảm thiểu chi phí và rủi ro cho nhà đầu tư. Sự điều chỉnh của pháp luật quản trị công ty chủ yếu nhằm hướng tới đáp ứng nhu cầu đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Đó cũng chính là yêu cầu thứ ba của việc điều chỉnh pháp luật quản trị công ty. Với yêu cầu này, trước hết các quy định quản trị công ty cần ghi nhận, bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực thi các quyền của chủ đầu tư. Trong đó, bao gồm cả quyền bầu, bãi nhiệm những người lãnh đạo công ty, quyền quyết định vấn đề trọng đại của công ty, quyền được tiếp cận thông tin liên quan đến hoạt động của công ty, quyền chất vấn Hội đồng quản trị và Giám đốc, quyền chuyển nhượng vốn và quyền khởi kiện.
Các nhà đầu tư khác nhau sẽ có những vị thế, lợi ích, mục tiêu và định hướng đầu tư không hoàn toàn giống nhau. Giữa họ ít nhiều sẽ xảy ra xung đột lợi ích, nhất là giữa nhà đầu tư thiểu số và nhà đầu tư nắm quyền lực kiểm soát công ty. Do vậy, khi bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, pháp luật quản trị công ty cũng cần nhấn mạnh đến tính công bằng giữa họ với nhau. Bởi, về bản chất, bản thân pháp luật là hiện thân của sự công bằng. Hơn nữa, chỉ có như vậy, pháp luật quản trị công ty mới thực sự trở thành hành lang pháp lý an toàn để thu hút hiệu quả vốn đầu tư. Với yêu cầu này, chế định quản trị công ty cần quy định cho tất cả các cổ đông cùng loại có các quyền như nhau, thủ tục và quy trình họp Đại hội đồng cổ đông cần được đảm bảo công bằng cho tất cả các cổ đông có quyền tham gia. Đồng thời, quy định chặt chẽ các điều kiện và thủ tục đối với những giao dịch của cổ đông nắm quyền lực kiểm soát công ty, cũng như cấm các hành vi lạm quyền lực của cổ đông đa số để
thực hiện các giao dịch có tính tư lợi và nội gián gây hại cho cổ đông thiểu số.
Về cơ bản, sự thành công của công ty gắn liền với khả năng điều hòa lợi ích giữa Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, các chức danh quản lý cao cấp khác và người lao động với lợi ích của chủ đầu tư. Thù lao dựa trên hiệu quả lao động được coi là công cụ hữu hiệu để đạt được mục tiêu này. Ở khía cạnh này, chế định quản trị công ty cần tạo ra một khuôn khổ mang tính hợp đồng để khuyến khích nỗ lực của các nhân lực chủ chốt trong công ty. Các quy định này vì thế không nên hạn chế sự mềm dẻo trong việc điều hòa lợi ích giữa chủ đầu tư với những nhà quản lý cấp cao và người thụ hưởng khác. Sự hạn chế quá mức có thể làm xói mòn tinh thần kinh doanh và ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật cần hạn chế sự lạm dụng thái quá quyền khởi kiện của chủ đầu tư ảnh hưởng xấu đến hoạt động quản lý công ty. Nói chung, bên cạnh yêu cầu bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, chế định quản trị công ty cũng cần tôn trọng và đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể có quyền lợi liên quan.
Đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả
Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật phải thiết lập cơ chế giảm thiểu các rủi ro và chi phí quản lý cho nhà đầu tư. Các quy định này cần hướng tới hạn chế sự tùy tiện trong quản lý đối với việc sử dụng nguồn vốn mà không tạo ra lợi nhuận, cũng như đặt ra các yêu cầu chặt chẽ đối với việc chuyển giao tài sản từ các nhà đầu tư thiểu số sang nhà đầu tư nắm quyền lực kiểm soát công ty, hoặc đối với các giao dịch có khả năng mang yếu tố tư lợi và nội gián sai trái khác ở cấp quản lý quan trọng. Điều này đòi hỏi pháp luật phải quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong cơ cấu quản trị công ty, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò giám sát của chủ đầu tư và những chủ thể thực hiện chức năng giám sát độc lập khác (không thực hiện hoạt động điều hành trực tiếp). Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, hoạt động giám sát của nhà đầu tư chỉ trở nên hiệu quả khi nhà đầu tư nắm bắt được đầy đủ các thông tin liên quan một cách kịp thời và chính xác. Nhưng trên thực tế nhà đầu tư không thể nắm bắt được thông tin nếu không có sự cung cấp của
người quản trị. Do đó, để bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của nhà đầu tư, pháp luật không thể không đảm bảo sự minh bạch hóa thông tin cho nhà đầu tư bằng các quy định mang tính bắt buộc.
Nói chung, việc quản trị công ty một cách hiệu quả phải dựa trên những nguyên tắc về sự minh bạch, dễ tiếp cận, kịp thời, đầy đủ, và chính xác của thông tin ở mọi cấp độ. Với việc nâng cao tính minh bạch trong công ty, các nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi khi họ có cơ hội được cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh và các số liệu tài chính của công ty. Thậm chí dù những thông tin được công bố mang tính tiêu cực đi chăng nữa thì càng cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi do họ có cơ hội để giảm thiểu rủi ro.
1.3. Các yếu tố tác động đến quy chế pháp lí về quản trị công ty
1.3.1. Cơ chế quản lí kinh tế của mỗi quốc gia
Cơ chế kinh tế tác động chi phối pháp luật quản trị công ty cả về hình thức lẫn nội dung. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động kinh doanh của công ty đều được thực hiện theo kế hoạch chi tiết và thống nhất do Nhà nước ấn định. Các công ty (xí nghiệp) hầu như không có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Trong quan hệ tổ chức của công ty, các cơ quan công quyền thường can thiệp rất sâu vào vấn đề tổ chức các thiết chế quản lí, bổ nhiệm, miễn nhiệm người điều hành. ở Việt Nam trong giai đoạn tập trung bao cấp, không chỉ đối với các xí nghiệp quốc doanh, mà cả với rất ít các doanh nghiệp công tư hợp doanh, các quan hệ tổ chức cũng chủ yếu dựa vào các mệnh lệnh hành chính. Điều này làm cho các quy định về tổ chức quản lý nội bộ công ty mang nặng tính mệnh lệnh hành chính và chứa đựng chủ yếu các quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật công. Với một nền kinh tế khép kín trong khuôn khổ kế hoạch nhà nước như thế, vai trò của pháp luật về doanh nghiệp nói chung, pháp luật về quản trị công ty nói riêng có phần bị xem nhẹ. Các quy định về quản trị công ty được thể hiện dưới hình thức chủ yếu là các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý thấp (do cơ quan hành pháp ban hành) và hầu như không được pháp điển hóa.
Trái lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế chủ yếu thông qua điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Các công ty tồn tại và hoạt động theo những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường. Vì vậy pháp luật công ty nói chung, quản trị công ty nói riêng có sự thay đổi cơ bản cả về đối tượng và phương pháp điều chỉnh so với trong cơ chế kinh tế tập trung. Chế định quản trị công ty được xây dựng với quan điểm cơ bản là đảm bảo quyền tự chủ của công ty, sự an toàn và bình đẳng giữa các chủ đầu tư. Do vậy, nội dung của các quy phạm này chủ yếu mang tính ghi nhận và đảm bảo quyền của chủ đầu tư và các chủ thể quản lý trong công ty. Cũng vì thế, chế định quản trị công ty chứa đựng chủ yếu các quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật tư.
1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
Cũng như quan hệ với các chế định pháp lý khác, trình độ phát triển kinh tế-xã hội là cơ sở quyết định nội dung của Luật công ty nói chung, chế định quản trị công ty nói riêng. Điều này có thể thấy qua quá trình hình thành và phát triển các mô hình tổ chức quản lý công ty. Lịch sử ra đời loại hình kinh doanh được gọi là công ty đầu tiên xuất phát từ nhu cầu liên kết vốn để mở rộng quy mô hoạt động và tăng cường năng lực kinh doanh. Điều đó chỉ xảy ra trong một điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự liên kết kinh doanh này thoạt đầu xảy ra giữa những người có quan hệ thân thiết và tin cẩn nhau, tạo ra các công ty đối nhân, mà tiêu biểu là các hợp danh. Vì công ty được hình thành dựa trên sự tin cẩn nhau, nên các hợp danh có cơ cấu tổ chức đơn giản, các quan hệ quản lý dựa trên sự thỏa thuận giữa các thành viên. Về sau, khi trình độ sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao hơn, nhu cầu liên kết để mở rộng quy mô kinh doanh cũng như phân tán rủi ro trước cạnh tranh khốc liệt của thị trường đã không còn dừng lại ở phạm vi những người quen biết, tin cậy nhau. Chúng mở rộng ra cả các đối tượng không quen biết nhau, hình thành các công ty đối vốn, mà đỉnh cao là các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu ra công chúng. Từ sự liên kết vốn giữa những người không thân thiết nhau phát sinh nhu cầu về một cơ chế quản lý và giám sát của chủ đầu tư đối
với lượng vốn bỏ vào công ty ngày một mạnh mẽ hơn. Vấn đề đảm bảo quyền kiểm soát của chủ đầu tư và quyền bình đẳng giữa họ làm cho cơ cấu tổ chức của công ty ngày một chặt chẽ hơn. Cũng vì thế chế định quản trị công ty cũng trở nên chặt chẽ hơn.
1.3.3. Các thiết chế bổ trợ cho Luật công ty.
Điều này hoàn toàn có thể chứng minh bởi thực tiễn pháp lý của các nước trên thế giới. Ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển năng động như Anh và Mỹ, thông tin thị trường tương đối hoàn hảo, giá cổ phiếu là yếu tố phản ánh năng lực quản trị công ty và tạo sức ép mạnh mẽ đối với những người quản trị công ty. Do vậy, để thích ứng với yêu cầu bảo toàn và tăng giá trị cổ phiếu của cổ đông trước nhạy cảm nhanh chóng của thị trường, Luật công ty tạo ra một cơ chế linh hoạt với đầy đủ quyền lực cần thiết cũng như trách nhiệm cho Hội đồng quản trị. Đặc biệt, Tổng Giám đốc điều hành (CEO) được trao cho nhiều quyền lực tối cao [87], [33]. Bên cạnh đó, sự giám sát hoàn hảo của thị trường bởi các thiết chế bổ trợ cùng với đặc điểm sở hữu không tập trung đã giúp cho các cổ đông tiềm năng và cổ đông hiện hữu giảm bớt chi phí không cần thiết cho hoạt động giám sát công việc quản lý, điều hành công ty. Với sự hỗ trợ hữu hiệu này, nhu cầu điều chỉnh hoạt động giám sát của cổ đông bằng Luật công ty cũng vì thế bớt phức tạp và chi tiết hơn [32, tr.2-6]. Hoạt động quản trị công ty được tập trung dưới một cơ cấu Hội đồng quản trị mạnh thực hiện cả chức năng giám sát và điều hành. Cổ đông chỉ có quyền biểu quyết phê chuẩn mà không có quyền đề xướng đối với việc cho thành viên Hội đồng quản trị vay tiền, bán tài sản nằm ngoài hoạt động kinh doanh bình thường,…[9, tr.212]. Việc tham gia quản lý công ty của đại diện tập thể người lao động cũng không mang tính bắt buộc.
Trái lại, ở Cộng hòa liên bang Đức, với mục tiêu phân tán bớt quyền lực của các chủ sở hữu tập đoàn lớn, tạo ra cơ cấu bền vững giải quyết bất đồng trong công ty, mô hình quản trị bắt buộc có sự tham gia của người lao động vào trong Hội đồng giám sát và Hội đồng công ty [36, tr.210, 211]. Với sự hỗ trợ của Luật tham quyết, có khoảng 1/3 đến 1/2 thành viên Hội đồng giám sát
là đại diện của người làm công trong công ty, số còn lại là do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Hội đồng giám sát không thực hiện chức năng điều hành như Hội đồng quản trị trong các công ty của Mỹ. Hội đồng giám sát bầu ra Ban điều hành công ty và giám sát hoạt động điều hành của họ. Bên cạnh đó, Hội đồng công ty đại diện cho người lao động trong công ty đối thoại với chủ doanh nghiệp để giải quyết các vấn đề liên quan đến thu nhập và việc làm của người lao động. Đây chính là hệ quả của sự phát triển pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động ở Đức.
1.3.4. Tập quán và văn hóa kinh doanh ở mỗi quốc gia.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, văn hóa kinh doanh quan hệ mật thiết với pháp luật doanh nghiệp nói chung và chế định về quản trị công ty nói riêng. Nó đóng vai trò chi phối pháp luật về quản trị công ty. Vì vậy, văn hóa kinh doanh của mỗi quốc gia được xem là nguồn gốc đưa đến những khác nhau trong chế định quản trị công ty giữa các nước (thuyết “path dependence”) [42]. Nghiên cứu vấn đề này, có quan điểm nhận định rằng: “… Hiển nhiên văn hóa, tôn giáo, thói quen và triết lý sống ảnh hưởng đáng kể đến mô hình tổ chức kinh doanh. Gần 150 năm nay người châu Á bắt đầu tiếp nhận mô hình công ty, song cung cách quản trị của người Á châu tuy có dấu hiệu hòa đồng, song vẫn có những nét riêng so với lối kinh doanh của người Âu Mỹ” [26, tr.231]. Quả vậy, đặc điểm kinh doanh của người phương Đông là dựa trên các mối quan hệ gia đình, thân hữu và niềm tin. Triết lý kinh doanh của họ làm cho chi phí giám sát (agency cost) không trở thành trọng tâm của các công ty dân doanh. Việc quản lý nội bộ công ty được tổ chức theo kiểu gia đình, người góp vốn đồng thời là người điều hành, hoặc phân chia công việc điều hành cho các thành viên trong gia đình; người quản trị thâu tóm tất cả các thông tin và tiết lộ nhỏ giọt cho người dưới quyền để đảm bảo tính gia trưởng của mình [26, tr.301, 366, 367]. Trái lại, người Mỹ quản trị công ty dựa trên sự minh bạch thông tin, trách nhiệm trung thành và cẩn trọng của người quản trị đối với cổ đông; mô hình quản trị công ty chịu ảnh hưởng mạnh bởi tư tưởng phân quyền và chế ước của lý luận tổ chức