Môi trường pháp lý và hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm phát triển hoạt động vận tải đa phương thức tại Việt Nam - 2

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC TẠI VIỆT NAM‌


I. Khái quát chung về Vận tải đa phương thức


Kể từ khi thương mại quốc tế xuất hiện và phát triển thì hoạt động vận tải luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nhờ có vận tải mà hàng hoá được lưu thông trên khắp thế giới, được đưa từ quốc gia này sang tiêu thụ ở quốc gia khác. Và cùng với sự phát triển, mở rộng của thương mại quốc tế, ngành vận tải cũng không ngừng có những bước tiến bộ nhằm đáp ứng cũng như thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hoá toàn cầu. Trong quá trình đó đã ra đời một phương pháp vận tải mới: Vận tải đa phương thức (Multimodal Transport). Đây có thể nói là một phương pháp hết sức hiệu quả, đánh dấu một bước hoàn thiện của vận tải hiện đại. Vậy vận tải đa phương thức là gì, đặc điểm, nguồn gốc cũng như những hiệu quả to lớn mà phương pháp vận tải này đã mang lại?


1.1. Khái niệm, đặc điểm và nguồn gốc của Vận tải đa phương thức

1.1.1. Khái niệm về Vận tải đa phương thức

Vận tải đa phương thức (Multimodal Transportation) quốc tế hay còn gọi là vận tải liên hợp quốc tế (Combined Transport) là phương pháp vận tải trong đó hàng hoá được chuyên chở bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau, trên cơ sở một hợp đồng vận tải, một chế độ trách nhiệm và chỉ một người chịu trách

nhiệm về hàng hoá trong suốt hành trình chuyên chở từ một địa điểm nhận hàng để chở ở nước này đến một địa điểm giao hàng ở nước khác(1).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Như vậy có thể hiểu đơn giản, Vận tải đa phương thức (VTĐPT) là việc vận chuyển hàng hoá bằng hai hay nhiều phương thức vận tải khác nhau


Môi trường pháp lý và hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm phát triển hoạt động vận tải đa phương thức tại Việt Nam - 2

1 Đại học Kinh tế quốc dân (2006), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb. Lao động xã hội, trang 212, Hà Nội.

trở lên theo một hợp đồng. Vận tải đa phương thức có thể là sự kết hợp của vận tải đường sắt - ô tô, hàng không - ô tô, đường sắt - ôtô - đường biển,..., nó không nhấn mạnh đến một phương thức vận tải nào, điều này có hơi khác so với Vận tải liên hợp là nhấn mạnh đến chặng vận tải biển; nhưng hiện nay trên thế giới đang có xu hướng sử dụng chủ yếu khái niệm “Vận tải đa phương thức” vì nó mang tính khái quát hơn. So với phương pháp vận tải đơn thức hay vận tải đứt đoạn (tức là trong một hành trình hàng hoá cũng được vận chuyển bằng hai hay nhiều phương thức vận tải khác nhau, nhưng lại sử dụng hai hay nhiều chứng từ vận tải khác nhau, và hai hay nhiều chế độ trách nhiệm của từng phương thức vận tải tương ứng), VTĐPT mang nhiều đặc điểm riêng khác hẳn và được làm rõ trong phần sau.

1.1.2. Đặc điểm của Vận tải đa phương thức.

Với khái niệm như trên, đặc điểm nổi bật đầu tiên của Vận tải đa phương thức là có sự tham gia của ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau vào quá trình vận chuyển hàng hoá.Ví dụ: có thể kết hợp chuyên chở bằng đường sắt với ôtô, hoặc ôtô - máy bay - tàu biển...Như vậy việc lựa chọn những phương tiện vận tải nào và bao nhiêu phương tiện sẽ được tham gia vào quá trình chuyên chở hàng hoá từ nơi nhận hàng đến nơi giao hàng còn phụ thuộc vào hành trình của hàng hoá, tính chất quãng đường vận chuyển, yêu cầu của khách hàng...

Đặc điểm quan trọng thứ hai của Vận tải đa phương thức là nó chỉ dựa vào một hợp đồng đơn nhất và được thể hiện trên một chứng từ vận tải đơn nhất : Chứng từ Vận tải đa phương thức (Multimodal transport Document) hay Vận đơn Vận tải đa phương thức ( Multimodal transport Bill of lading) hay Vận đơn vận tải liên hợp (Combined transport Bill of lading). Trong đó hợp đồng vận tải đơn nhất ở đây được hiểu là một hợp đồng giao kết duy nhất giữa người gửi hàng với người kinh doanh VTĐPT, theo đó người kinh doanh VTĐPT đảm nhiệm việc vận chuyển hàng hoá để thu tiền cước cho toàn bộ

quá trình vận chuyển từ điểm nhận hàng đến điểm trả hàng cho người nhận hàng bằng ít nhất hai phương thức vận tải.

Đặc điểm thứ ba là Người kinh doanh Vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator - MTO) trong trường hợp này hành động như một người chủ ủy thác chứ không phải như đại lý của người gửi hàng hay đại lý của người chuyên chở tham gia vào VTĐPT. MTO có thể tự mình thực hiện việc chuyên chở (MTO là chủ của các phương tiện vận tải khác nhau), hoặc có thể thuê người khác để thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng VTĐPT (MTO là chủ của một phương tiện vận tải hoặc không sở hữu bất kỳ phương tiện nào và tiến hành lưu cước trên các phương thức khác). Nếu MTO tự mình chuyên chở hàng hoá thì MTO đồng thời là người chuyên chở thực tế (Actual Carrier), còn nếu phải đi thuê người khác chuyên chở hàng hoá thì MTO là người chuyên chở theo Hợp đồng (Contracting Carrier).

Đặc điểm thứ tư và cũng là đặc điểm quan trọng nhất là Vận tải đa phương thức liên quan đến một đầu mối vận tải duy nhất – MTO – người phải chịu trách nhiệm duy nhất đối với hàng hoá trong suốt quá trình vận chuyển từ khi nhận hàng để chuyên chở cho đến khi giao xong hàng cho người nhận, kể cả việc chậm giao hàng ở nơi đến. Vậy là MTO chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hàng hoá trong toàn bộ hành trình cho dù MTO có thể ký hợp đồng phụ với các công ty vận tải khác như đường sắt, đường thuỷ, đường không...Chế độ trách nhiệm của MTO có thể là: Chế độ trách nhiệm thống nhất (Uniform Liability System – nghĩa là hàng hoá dù bị tổn thất ở bất cứ chặng nào của hành trình thì MTO cũng chỉ chịu một chế độ trách nhiệm thống nhất, không thay đổi), hoặc Chế độ trách nhiệm chặng (Network Liability System - tức là hàng hoá bị tổn thất ở chặng nào thì áp dụng chế độ trách nhiệm của phương thức vận tải tương ứng) tuỳ theo thoả thuận của hai bên.

Đặc điểm thứ năm của Vận tải đa phương thức là: khi đã lựa chọn VTĐPT người gửi hàng phải trả cho MTO tiền cước phí chở suốt của tất cả

các phương thức vận tải mà hàng hoá đi qua theo một giá cước đơn nhất đã được thoả thuận, nghĩa là dù hàng hoá được chuyên chở bằng nhiêù loại phương tiện khác nhau nhưng khi tính giá cước thì chỉ tính theo một mức giá thống nhất.

Đặc điểm cuối cùng của Vận tải đa phương thức là hàng hoá chuyên chở thường được đóng gói trong các dụng cụ vận tải như pallet, container... thành một đơn vị vận chuyển giữa các phương thức.

Như vậy có thể hình dung Vận tải đa phương thức là phương pháp vận tải sử dụng từ hai phương thức vận tải trở lên, dựa vào một hợp đồng đơn nhất, thể hiện trên một chứng từ vận tải đơn nhất với một giá cước đơn nhất, và người kinh doanh VTĐPT (MTO) chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trên toàn hành trình.

1.1.3. Nguồn gốc ra đời của Vận tải đa phương thức.

Vận tải đa phương thức ra đời vào khoảng cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ XX tại Tây Âu và Mỹ, phát triển mạnh từ 1960 khi cuộc cách mạng container đi vào chiều sâu và tiếp tục là một phương pháp vận tải ngày càng phổ biến trong giai đoạn hiện nay ở nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là ở các nước phát triển. Vậy lý do nào khiến VTĐPT ra đời và nhanh chóng phát triển?

Câu trả lời trước hết là VTĐPT ra đời là kết quả tất yếu của bản thân quá trình phát triển của ngành vận tải. Trong quá trình phát triển đó lần lượt từng phương thức vận tải hiện đại ra đời: tàu biển, tàu hỏa, ôtô, máy bay...đã đáp ứng yêu cầu của hoạt động buôn bán hàng hoá quốc tế không ngừng mở rộng. Tuy nhiên khi hàng hoá cần vận chuyển qua một quãng đường dài, qua nhiều quốc gia, đòi hỏi phải sử dụng nhiều loại phương tiện vận tải như : ôtô, tàu biển, máy bay... thì đã phát sinh nhiều vấn đề, đó là chủ hàng phải ký kết quá nhiều hợp đồng với các hãng vận tải khiến thủ tục giấy tờ vô cùng phức tạp, bên cạnh đó nó còn làm tăng chi phí, ùn tắc hàng hoá do chờ phối hợp

phương tiện chuyên chở gây chậm trễ thời gian giao hàng...Và chính những hạn chế đó đã thúc đẩy phương pháp vận tải mới xuất hiện – Vận tải đa phương thức – tổ chức phối hợp thống nhất các phương thức vận tải khác nhau với một người chịu trách nhiệm trên toàn bộ hành trình vận chuyển – MTO nhằm giảm thời gian chuyên chở, đơn giản hoá thủ tục giấy tờ, tiết kiệm chi phí, giao hàng đúng nơi đúng thời gian quy định.

Nhân tố thứ hai thúc đẩy sự ra đời và phát triển của VTĐPT chính là nhu cầu hoàn thiện hệ thống phân phối vật chất của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong xã hội. Trong hoạt động quản lý sự vận động của nguyên liệu, sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ cuối cùng (Logistic), vận tải luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó quyết định tính hiệu quả của hoạt động Logistic, giúp tiết kiệm chi phí vì trong tổng chi phí Logistic thì chi phí vận tải và lưu kho chiếm tới 1/3, đồng thời vận tải hiệu quả cũng giúp tiết kiệm thời gian: chuyển thời gian lưu kho thành thời gian vận chuyển. Và phương pháp vận tải có thể thoả mãn yêu cầu trên của các nhà sản xuất kinh doanh trong xã hội cũng như hoàn thiện hệ thống Logistic là Vận tải đa phương thức.

Cuộc cách mạng container bắt đầu đi vào chiều sâu vào những năm đầu thập kỷ 1960 đã giúp việc chuyên chở hàng hoá bằng tàu biển thuận tiện hơn, giảm thiệt hại, hư hỏng cho hàng hoá và đặc biệt là giảm ùn tắc ở cảng biển do hàng hoá được đóng thành kiện. Tuy nhiên, việc này lại dẫn tới một tình trạng là ứ đọng container ở các đầu mối giao thông khác, vì vậy VTĐPT với sự phối hợp thông suốt giữa các phương tiện vận tải khác nhau đã giải quyết được tình trạng đó, các container hàng hoá không còn phải chờ đợi quá lâu tại các điểm đầu mối giao thông để được chuyên chở đi mà được chuyên chở theo một quy trình mới “từ cửa đến cửa” (Door to door). Thời điểm này cũng là lúc hoạt động VTĐPT bắt đầu diễn ra mạnh mẽ tại một số nước phát triển: Mỹ, Tây Âu...

Một nhân tố nữa cũng đóng góp vào quá trình ra đời và phát triển của VTĐPT chính là sự tiến bộ của công nghệ thông tin (đặc biệt là Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử Electronic Data Interchange - EDI) giúp phối hợp chặt chẽ các phương thức, là cầu nối giữa các bên liên quan, giúp người VTĐPT quản lý được toàn bộ quy trình chuyên chở hàng hoá.

Trên đây là bốn nhân tố chủ yếu đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của Vận tải đa phương thức.

1.2. Hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động Vận tải đa phương thức

Vận tải đa phương thức có sự kết hợp của từ hai phương thức vận tải khác nhau trở lên nên phương pháp này đã phát huy được những ưu thế cũng như hạn chế những nhược điểm của mỗi phương thức khi tham gia vào việc vận chuyển hàng hoá:

- Đường sắt có ưu thế về khả năng chuyên chở hàng hoá cồng kềnh, chi phí rẻ nhưng lại không cơ động vì chỉ chạy được ở những tuyến đường có đường ray.

- Ôtô cơ động, linh hoạt, có khả năng chạy được tới nhiều nơi mà các phương tiện khác không tới được nhưng lại không có khả năng chuyên chở hàng hoá siêu trường, siêu trọng.

- Máy bay có ưu thế lớn về tốc độ, chuyên chở được hàng hoá với khối lượng lớn, phù hợp với những hàng hoá giá trị cao, gấp về thời gian, nhưng chi phí vận chuyển bằng máy bay lại vô cùng tốn kém.

- Tàu biển có ưu thế là vận chuyển hàng hoá có khối lượng lớn, qua quãng đường dài với chi phí thấp nhất trong số các loại phương thức nhưng thời gian chuyên chở kéo dài, dễ gây tổn thất cho hàng hoá.

Với việc phát huy ưu điểm của mỗi loại phương tiện, giảm bớt nhược điểm trong quá trình chuyên chở hàng hoá, Vận tải đa phương thức đang mang lại nhiều lợi ích cũng như hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội.

* Hiệu quả về mặt kinh tế.

Vận tải đa phương thức không chỉ đơn thuần là sự kết hợp của hai hay nhiều phương thức vận tải mà việc kết hợp đó đã trở thành một hệ thống, trong đó các phương thức vận tải, những người tham gia phải phối hợp hoạt động một cách nhịp nhàng để đưa hàng hoá từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng được nhanh nhất, an toàn nhất, hiệu quả nhất. Do đó hiệu quả về mặt kinh tế của nó là rất lớn:

- Tạo ra một đầu mối vận tải duy nhất là người kinh doanh VTĐPT: khi tiến hành gửi hoặc nhận hàng hoá, cũng như khi cần tìm người để khiếu nại trong trường hợp hàng hoá bị hư hỏng trên bất kỳ chặng nào của quá trình chuyên chở, thì người gửi hoặc người nhận cũng chỉ cần liên hệ với duy nhất người VTĐPT nên hết sức thuận lợi.

- Tiết kiệm thời gian vận chuyển hàng hoá: nhờ việc phối hợp thông suốt các phương thức vận tải, việc tiêu phí thời gian ở các điểm chuyển tải được giảm thiểu, từ đó giảm thời gian chuyên chở hàng hoá, tăng nhanh tốc độ giao hàng, không những thế còn rút ngắn thời gian hàng hoá phải đối mặt với rủi ro giúp nâng cao mức độ an toàn của hàng hoá.

- Tiết kiệm chi phí vận tải: VTĐPT giúp giảm các chi phí lưu kho lưu bãi hàng hoá do đã có sẵn kế hoạch vận chuyển, phối hợp các nhà vận tải một cách chủ động, hiệu quả.

- Đơn giản hoá thủ tục giấy tờ: hàng hoá vận chuyển bằng VTĐPT tuy có sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để chuyên chở nhưng lại chỉ cần một chứng từ VTĐPT đơn nhất nên rất thuận tiện cho người gửi hàng.

- Tạo động lực cho hoạt động buôn bán hàng hoá trong nước và quốc tế: do VTĐPT góp phần giúp cho việc vận chuyển hàng hóa giữa các khu vực, các quốc gia trở nên nhanh chóng, kinh tế, dễ dàng hơn.

* Hiệu quả về mặt xã hội.

Vận tải đa phương thức càng phát triển thì càng thúc đẩy nhiều công nghệ mới và dịch vụ mới ra đời, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Đồng thời dịch vụ VTĐPT phát triển còn giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, góp phần giảm tình trạng thất nghiệp trong xã hội.‌

II. Thực trạng hoạt động Vận tải đa phương thức tại Việt Nam.

Vận tải đa phương thức ra đời mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế cũng như xã hội, nhưng tại Việt Nam dịch vụ trên vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển sơ khai. Phần II này sẽ đi vào tìm hiểu thực trạng cơ sở hạ tầng và sự tham gia của các phương thức vận tải vào hoạt động VTĐPT, tình hình các doanh nghiệp kinh doanh VTĐPT, nguồn nhân lực phục vụ và các yếu tố thuộc về hoạt động quản lý của Nhà nước, nhằm làm rõ nét thực trạng hoạt động Vận tải đa phương thức ở Việt Nam.


2.1. Thực trạng cơ sở hạ tầng và sự tham gia của các phương thức vận tải vào hoạt động Vận tải đa phương thức ở Việt Nam

Vận tải đa phương thức là một dây chuyền phối hợp nhiều phương thức vận tải khác nhau, vì vậy thuận lợi hay khó khăn về điều kiện cơ sở hạ tầng và mức độ tham gia của mỗi phương thức vận tải đơn lẻ đều có tác động quan trọng tới sự phát triển chung của hoạt động VTĐPT tại Việt Nam.

Mạng lưới giao thông của nước ta khá rộng và phong phú. Hệ thống giao thông miền Bắc tập trung chủ yếu về khu vực Hà Nội, Hải Phòng và châu thổ sông Hồng; ở miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trung tâm và cảng đầu mối trọng yếu của cả nước được kết nối với vùng châu thổ sông Cửu Long bằng mạng lưới đường bộ và đường thuỷ. Nối liền hai khu vực kể trên là tuyến đường Quốc lộ số 1, tuyến đường sắt Bắc – Nam và đường biển dọc theo vùng duyên hải. Như vậy điều kiện địa hình cho phép phát triển cả đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa, đường biển và đường hàng không.

Ngày đăng: 05/05/2022