Kết Luận Từ Tổng Quan Nghiên Cứu Và Xác Định “Khoảng Trống” Nghiên Cứu


nhân và sự sụt giảm mạnh của đầu tư tư nhân chứ không phải do THNS tác động. Nhược điểm lớn nhất của nghiên cứu này là do thiếu số liệu về tiết kiệm tư nhân nên các tác giả chưa kiểm định được cú sốc tăng THNS đối với tiết kiệm tư nhân. Do đó, kết luận về hiệu ứng Ricardo chưa mang tính thuyết phục cao.

Bảng 1.5: Bảng tổng kết các nghiên cứu về Việt Nam



Tác giả

Biến sử dụng

Giai

đoạn

Mô hình

Chiều tác động


Loại quan hệ

Ngắn

hạn hay dài hạn

Kênh

truyền dẫn tác động

Tên

Loại

Trương Thị Nguyệt Hằng và

cộng sự

(2010)

GDP, THNS,

THVL, lãi suất, tỷ giá

1995-

2009

(theo quý)

SVAR

Đối xứng

THNS và THTM

tồn tại

độc lập


Ngắn hạn

Không chỉ rò

Trường ĐH

THNS,

1985-

VAR

Đối

THNS

Đồng biến

Ngắn


Kinh tế TP

THTM, I,

2010


xứng

(1985-1995

hạn và

Không chỉ

HCM

S, GDP

(theo



THVL

và 2004-

dài hạn

(2011)


quý)




2010 và 1985









- 2010)









Nghịch biến









(1996-2003)



Nguyễn

THNS,

2000-

VECM

Đối

THNS

Đồng biến

Ngắn

THNS tăng

Hoàng Như Thủy (2012)

THVL, lãi suất ngắn hạn, tỷ giá hối đoái

2011

(theo quý)


xứng

THVL


hạn và dài hạn

Lãi suất tăng đầu tư nước ngoài tăng

tỷ giá









tăng









nhập khẩu









tăng









THVL tăng

Trịnh Thị

THNS,

1994-

VAR

Đối

THVL


Không

Không chỉ

Trinh và

THVL

2012


xứng

Không kết

chỉ rò

cộng sự


(theo



THNS

luận



(2013)


năm)







Nguyễn

Tốc độ

2000 -

VAR

Đối

THVL

Đồng biến

Dài

Không chỉ

Lan Anh (2018)

thay đổi

cán cân

vãng lai,

tốc độ

2015

(theo quý)


xứng

THNS


hạn


thay đổi









cán cân









NS, tỷ giá,









lãi suất








Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 257 trang tài liệu này.

Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại Việt Nam - 5

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các tài liệu tổng quan


1.1.3. Kết luận từ tổng quan nghiên cứu và xác định “khoảng trống” nghiên cứu

1.1.3.1. Kết luận

Thế giới đã có hơn nửa thế kỷ nghiên cứu về mối quan hệ giữa THNS và THTM. Ngày nay sự quan tâm đến chủ đề này vẫn còn rất lớn, bằng chứng là quá trình nghiên cứu thực nghiệm vẫn luôn diễn ra và thường xuyên mang đến những tranh luận, những phát hiện mới hết sức thú vị. Một mặt, THNS và THTM là những hiện tượng phổ biến và chúng có ảnh hưởng lớn đến tính bền vững trong tăng trưởng của các quốc gia. Mặt khác là do mối quan hệ này có tính chất phức tạp, luôn biến đổi theo đặc thù từng nền kinh tế, theo cách thức điều hành chính sách vĩ mô ở từng nước trong từng giai đoạn khác nhau. Kết quả nghiên cứu thì rất đa dạng, có quan hệ 1 chiều (THNS THTM hoặc THTM THNS), có quan hệ tương tác hai chiều (THNS < -- > THTM) và có cả sự tồn tại độc lập giữa hai loại thâm hụt. Dấu của quan hệ có cả trường hợp đồng biến, có trường hợp nghịch biến. Ngoài hai biến chính là THNS và THTM, việc đưa thêm nhiều biến vĩ mô khác vào nghiên cứu với vai trò là biến kiểm soát đã giúp một số nghiên cứu đi sâu hơn, xác định được cơ chế truyền dẫn của mối quan hệ này. Kênh truyền dẫn được xác định cũng rất đa dạng (có thể là một kênh, có thể là nhiều kênh). Chính sự phản hồi đa dạng của các kênh truyền dẫn này (trong bối cảnh của các quốc gia có sự khác nhau về đặc điểm kinh tế, xã hội) là những yếu tố tạo nên bức tranh đa sắc màu cho mối quan hệ của hai cán cân. Điều đó rất có ý nghĩa trong việc kiểm soát có hiệu quả mức thâm hụt ở hai khu vực. Từ sau năm 2010, với việc xuất hiện phương pháp nghiên cứu mới - nghiên cứu trên cơ sở bất đối xứng - đã mang lại luồng gió mới trong nghiên cứu về chủ đề này. Phương pháp này đã giúp nhà nghiên cứu nhìn nhận vấn đề thực tế hơn, tránh được lối suy diễn phiến diện coi tác động khi tăng 1 đơn vị của biến độc lập cũng bằng với tác động khi giảm 1 đơn vị của nó tới biến phụ thuộc. Tuy nhiên đây là xu hướng mới nên chưa có nhiều nghiên cứu thực hiện ở phạm vi quốc tế, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào cho Việt Nam sử dụng phương pháp này.

1.1.3.2. Khoảng trống nghiên cứu

Thông qua tổng quan một số công trình nghiên cứu trên đây về thâm hụt kép được nghiên cứu ở trên thế giới cũng như tại Việt Nam, tác giả thấy nổi lên một số khoảng trống như sau:

+ Về biến nghiên cứu: Nhiều nghiên cứu thực hiện cho Việt Nam mới chỉ sử dụng hai biến cơ bản là THNS và THTM (hoặc THVL) do vậy kết quả thu được mới chỉ dừng lại ở mức độ chỉ ra quan hệ nhân quả mà chưa chỉ ra được kênh tác động giữa chúng.


Một số nghiên cứu khác về Việt Nam tuy có đưa thêm nhiều biến khác như lãi suất và tỷ giá, GDP nhưng phần lớn là dưới dạng biến danh nghĩa.

+ Về phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về thâm hụt kép trên thế giới từ năm 2010 trở lại đây đã theo xu hướng mới, bắt đầu sử dụng các mô hình tiên tiến hơn, có tính đến tác động bất cân xứng của biến độc lập lên biến phụ thuộc. Tuy nhiên, cho đến thời điểm tác giả thực hiện luận án thì chưa có nghiên cứu nào đưa yếu tố này vào trong nghiên cứu thực nghiệm cho trường hợp của Việt Nam. Đây là khoảng trống cần được lấp đầy.

+ Về giai đoạn nghiên cứu: Giai đoạn nghiên cứu được lựa chọn là từ 2005Q1- 2017Q4. Đây là giai đoạn Việt Nam có nhiều thay đổi về chính sách thương mại và tài khóa để ứng phó với những “sóng gió” đến từ bên trong và bên ngoài nền kinh tế. Đã có nghiên cứu tìm hiểu về mối quan hệ giữa hai loại thâm hụt trong giai đoạn này song, chưa có nghiên cứu nào thực hiện trên cơ sở có tính đến tính bất đối xứng giữa tác động của các biến số.

Phần tiếp theo, luận án đi sâu trình bày cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa THNS và THTM để thấy được rằng, ngay từ trong các lý thuyết nền tảng cũng chưa thống nhất về cách giải thích mối quan hệ này, và các kết quả phân tích định lượng như đã tổng quan đều được cho là phù hợp với từng trường phái lý thuyết nhất định.

1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa THNS và THTM

1.2.1. Cơ sở lý thuyết về ngân sách và thâm hụt ngân sách

Ngân sách là một trong những vấn đề vĩ mô quan trọng của mọi quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ ngân sách ra đời gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và được bắt đầu sử dụng từ thế kỷ 17 ở nước Anh. Thông thường thì NSNN được tổ chức và quản lý theo nhiều cấp, bộ máy Nhà nước có đến cấp nào thì ngân sách được tổ chức đến cấp đó. Cụ thể đối với những nước có bộ máy được tổ chức theo thể chế liên bang (như Mỹ, Đức…), hệ thống ngân sách được chia thành nhiều cấp gồm cấp liên bang, cấp tiểu bang, cấp địa phương. Còn đối với những quốc gia có hệ thống chính quyền đơn nhất như Việt Nam, Trung Quốc… thì NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (gồm 3 cấp: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận huyện; và cấp phường, xã). Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, “ngân sách” được hiểu là ngân sách của một quốc gia - NSNN - bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương kết hợp lại. Chính phủ điều hành NSNN thông qua chính sách tài khóa, một công cụ để Nhà nước tiến hành huy động, phân bổ, và sử dụng nguồn lực tài chính cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Thêm


nữa do đặc thù nguồn NSNN là nguồn lực công, chủ yếu đến từ nguồn thu thuế từ các cá nhân và doanh nghiệp nên các hoạt động thu, chi và quản lý ngân sách đều buộc phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt về quản lý công quỹ do từng quốc gia quy định, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của quốc gia đó, đảm bảo nguồn ngân sách chỉ được dùng cho các mục đích công và trên nguyên tắc công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Các hoạt động có liên quan đến ngân sách gồm hai hoạt động chính, đó là thu ngân sách (huy động nguồn lực cho ngân sách) và chi ngân sách (phân bổ và sử dụng ngân sách).

1.2.1.1. Thu ngân sách

Theo IMF (2014) thu ngân sách là những hoạt động hoặc làm tăng giá trị tài sản có (asset), hoặc làm giảm giá trị tài sản nợ (liability), do đó làm tăng giá trị tài sản ròng (net worth).

Sachs và Larrain (1993), Dornbusch và cộng sự (2004) thì thu từ các loại thuế trong nền kinh tế chính là các nguồn thu quan trọng của ngân sách. Trong cơ cấu thu ngân sách của đa phần các quốc gia, thuế luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất. Cụ thể là “nền kinh tế càng phát triển cao thì nguồn thu từ thuế càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Tại các nước phát triển, thuế chiếm hơn 90% thu NSNN và hơn ¼ tổng sản phẩm quốc dân. Ở những quốc gia đang phát triển thuế chiếm tỉ trọng ít hơn (khoảng 80% tổng thu NSNN và tỉ trọng so với GDP cũng thấp hơn (khoảng 1/5 GDP)” (Dương Thị Bình Minh (2005). Ngoài thuế, NSNN còn được bổ sung bởi các khoản vay nợ (vay trong nước như phát hành trái phiếu, tín phiếu, vay thương mại trong nước, và vay nước ngoài từ viện trợ phát triển chính thức (ODA) hay các nguồn vay thương mại nước ngoài khác), các khoản thu từ lệ phí, phí và các khoản thu khác.

- Phân loại thu ngân sách: Có nhiều tiêu chí để phân loại các khoản thu.

+ Theo tính chất: Thu ngân sách được chia thành hai nhóm là các khoản thu từ thuế (như thuế trực thu gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp); thuế gián thu như thuế xuất nhập khẩu, thuế đất…) và các khoản thu không phải thuế (như phí, lệ phí, vay nợ…)

+ Theo phạm vi lãnh thổ: Thu ngân sách được chia thành thu trong nước, hay còn gọi là thu nội địa (thuế, phí, lệ phí, vay trong nước) và thu ngoài nước (thu từ thuế xuất nhập khẩu, vay nợ, nhận viện trợ nước ngoài...)

+ Theo nội dung: Gồm thu không mang nội dung kinh tế (các khoản quyên góp, viện trợ nước ngoài, quà tặng…) và thu mang nội dung kinh tế (thuế, phí, vay nợ, bán tài nguyên…).


- Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu của thu ngân sách

Theo Dương Thị Bình Minh (2005), quy mô và cơ cấu thu NSNN chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chính như sau:

+ Trình độ phát triển kinh tế: Thu ngân sách phần lớn được hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra. Trình độ phát triển kinh tế được đại diện bởi GDP, đây được xem là cơ sở để đảm bảo cho nguồn thu. Trong một nền kinh tế phát triển với qui mô GDP lớn, sẽ đem lại nguồn thu lớn và đều đặn và cho NSNN, từ đó Nhà nước có điều kiện để chi nhiều hơn cho đầu tư và chi thường xuyên. Những khoản chi tiêu công này sau đó lại hỗ trợ tích cực cho nền kinh tế phát triển tốt hơn. Như vậy, có thể xem thu ngân sách như là một hàm của thu nhập của nền kinh tế:

Thu ngân sách = f (GDP)

+ Mức độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán: Mức độ hiện đại ở đây được hiểu là mức độ phổ biến của phương tiện thanh toán và hạch toán đa dạng, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và thói quen sử dụng công nghệ. Hiện đại hóa các hoạt động thanh toán và hạch toán sẽ giúp minh bạch hóa mọi khoản thu và chi của các cá nhân và tổ chức. Từ đó, nguồn thu từ thuế sẽ mang tính chính xác, công bằng hơn, số thuế thu được sẽ nhiều hơn, đồng nghĩa với thất thu thuế sẽ giảm.

+ Trình độ nhận thức của công chúng: Do phần lớn ngân sách được hình thành từ các khoản thuế do người dân đóng góp nên ý thức của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thu ngân sách. Khi người dân nhận thức được tầm quan trọng của thuế cũng như trách nhiệm và quyền lợi của họ trong việc đóng thuế thì tình trạng trốn thuế, gian lận thuế sẽ giảm. Bên cạnh đó, người dân sẽ còn góp phần làm tăng cường hiệu quả thu chi ngân sách thông qua giám sát, phát hiện sai phạm.

+ Năng lực pháp lý của bộ máy Nhà nước: Nhà nước với một bộ máy làm việc hiệu quả trước tiên sẽ có khả năng đề ra những khoản thu hợp lý, công bằng đối với nền kinh tế. Sau đó, bộ máy sẽ thu nhanh, thu đúng và thu đủ, phát hiện và kịp thời xử lý những sai phạm trong quá trình thu ngân sách cũng như quản lý các nguồn thu hiệu quả và đảm bảo tính công khai, minh bạch.

- Các yếu tố đảm bảo tính bền vững cho thu ngân sách

Một cơ cấu thu tốt là một cơ cấu phải lấy nguồn thu trong nước làm trọng tâm vì đây chính là nội lực của nền kinh tế, vừa mang tính chủ động cao lại vừa tạo điều kiện cho Nhà nước trả nợ dễ dàng (do vay mượn bằng đồng nội tệ). Các khoản thu ngoài nước cũng được coi là các nguồn lực bổ sung, làm tăng cường thêm nguồn thu cho ngân


sách. Tuy nhiên các khoản thu ngoài nước thường không bền vững, bị phụ thuộc bởi các điều kiện chặt chẽ và tình hình kinh tế của bên cho vay. Thêm vào đó việc vay mượn (thường được thực hiện bằng ngoại tệ mạnh) sẽ gây khó khăn cho việc trả nợ và rất dễ gặp rủi ro về tỷ giá.

Vậy trong cơ cấu các khoản thu trong nước với đặc thù thu thuế chiếm tỷ trọng lớn thì một vấn đề đặt ra là cơ cấu các loại thuế như thế nào để đạt được hiệu quả nguồn thu? Với bản chất luỹ thoái, thuế gián thu sẽ tạo nên sự không công bằng trong nộp thuế vì người nghèo phải trả với tỷ lệ cao hơn trong thu nhập cho thuế như nhận định của Sachs và Larrain (1993). Ngoài ra, thuế gián thu còn tác động trực tiếp gây méo mó giá cả, dẫn đến tín hiệu sai lệch về phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại, thuế trực thu là thuế đánh vào thu nhập do vậy người chịu thuế đồng thời cũng là người nộp thuế mà không qua trung gian nào cũng như không can thiệp vào giá cân bằng thị trường. Do vậy, thuế trực thu vừa hiệu quả vừa công bằng hơn so với thuế gián thu. Từ phân tích trên có thể kết luận: Một cơ cấu thu có tính bền vững cao phải đảm bảo đồng thời hai yếu tố: (1) nguồn thu trong nước phải là chủ đạo trong tổng nguồn thu và (2) trong cơ cấu thu trong nước thì thuế trực thu phải chiếm tỷ trọng cao hơn so với thuế gián thu.

1.2.1.2. Chi ngân sách

Theo IMF (2014), chi ngân sách là những hoạt động hoặc làm giảm giá trị tài sản có, hoặc làm tăng giá trị tài sản nợ, do đó làm giảm giá trị tài sản ròng.

Chi ngân sách cũng là hoạt động quan trọng của Chính phủ. Các khoản chi được thực hiện để tái phân phối thu nhập nhằm cải thiện tình trạng bất bình đẳng do phát triển kinh tế gây ra, nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường (cung cấp hàng hóa, dịch vụ công, vấn đề ô nhiễm môi trường, xóa đói giảm nghèo…) và đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định.

- Phân loại chi ngân sách

Khi nghiên cứu về tài chính công, Dương Thị Bình Minh (2005) cho rằng có 3 cách phân loại các khoản chi ngân sách:

+ Theo chức năng của Nhà nước: Tên gọi của từng khoản chi gắn với mục đích chi tiêu (ví dụ chi xây dựng cơ sở hạ tầng, chi cho giáo dục, chi cho an sinh xã hội…)

+ Theo tính chất kinh tế: Chi ngân sách được chia thành 2 nhóm gồm (a) Chi thường xuyên: đây là nhóm chi phát sinh thường xuyên, đều đặn hàng năm để duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước và mua sắm các hàng hoá, dịch vụ không


lâu bền như chi hành chính, chi hoạt động sự nghiệp, chi an ninh quốc phòng… (b) chi đầu tư phát triển: đây là nhóm chi gắn liền với chức năng kinh tế của nhà nước như chi xây dựng hạ tầng, chi cho quỹ hỗ trợ tài chính, chi dự trữ…

+ Theo quy trình lập ngân sách: chi ngân sách được chia thành (a) chi tiêu công theo các yếu tố đầu vào như: chi mua tài sản cố định, chi mua tài sản lưu động, chi bằng tiền khác… (b) chi tiêu công theo đầu ra gồm các khoản chi dựa vào khối lượng công việc đầu ra của đơn vị.

Còn theo quan điểm của của một số nhà kinh tế học như Sachs và Larrain (1993), Hall và Lieberman (2008), Begg và cộng sự (2007) thì thông thường, chi ngân sách được phân loại thành 3 nhóm gồm: (a) Mua sắm của Chính phủ: gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ do Chính phủ mua, kể cả qua các dự án đầu tư phát triển (b) Thanh toán chuyển nhượng: như trả lương hưu, trợ cấp thất nghiệp và những chi trả phúc lợi khác, (c) Chi trả lãi: số tiền lãi mà Chính phủ phải trả cho các chủ nợ. Bên cạnh đó, các nhà kinh tế học này cũng thừa nhận có trường hợp chi ngân sách chỉ được chia thành 2 nhóm cơ bản là (a) Chi thường xuyên (b) Chi đầu tư.

- Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô và cơ cấu chi ngân sách

Dương Bình Minh (2005) cho rằng chi ngân sách chịu sự tác động của hai yếu tố:

+ Sự phát triển về vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế: Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội sẽ nảy sinh nhiều nhu cầu mới mà khu vực tư nhân sẽ không muốn hoặc không thể tham gia vì không có lợi nhuận hoặc không đủ năng lực để cung cấp. Do đó cần có sự tham gia của Chính phủ. Do vậy nhu cầu chi ngân sách sẽ tăng.

+ Sự thay đổi quan niệm về chi tiêu công: Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì mục đích cơ bản nhất của chi tiêu công là cung cấp cho Chính phủ tiền để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Còn ngày nay, theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì chi tiêu công là công cụ để quản lý kinh tế, khắc phục những khuyết tật của thị trường. Như vậy, quan niệm về mục tiêu chi ngân sách đã có sự thay đổi theo hướng mở rộng hơn, kéo theo sự tăng lên của chi ngân sách.

- Các yếu tố đảm bảo tính bền vững của chi ngân sách

Cùng với thu ngân sách, chi ngân sách bền vững cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả của khu vực tài chính công. Có 2 yếu tố chính quyết định đến tính bền vững của chi ngân sách là quy mô và cơ cấu chi tiêu.

Ở bất kỳ quốc gia nào nguồn thu ngân sách là có hạn nên tất yếu việc chi tiêu cũng cần phải có giới hạn. Tuy nhiên, giới hạn ở quy mô nào là bền vững thì cho đến


nay các nhà kinh tế học vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Mức chi tiêu phụ thuộc lớn vào mong muốn của Chính phủ, của cơ cấu bộ máy nhà nước và tình hình kinh tế xã hội. Các yếu tố này là khác nhau ở các nước. Do vậy không có hình thái chi tiêu tuyệt đối hợp lý cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên bằng phân tích thực nghiệm, có nghiên cứu cho rằng quy mô chi tiêu công tối ưu đối với các nền kinh tế đang phát triển nằm trong khoảng từ 15-20% GDP (Phạm Thế Anh và cộng sự (2013). Tất nhiên, mức chi cụ thể còn tùy thuộc vào tình trạng ngân sách và tình hình kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời điểm. Đường lối chung mà các nhà kinh tế chỉ ra cho chi tiêu là giới hạn chi tiêu nên linh hoạt theo chu kỳ kinh tế: chi tiêu tăng khi kinh tế suy thoái (để tạo điều kiện cho tăng trưởng thông qua cơ chế kích cầu) và chi tiêu giảm khi kinh tế tăng trưởng (để giảm áp lực đối với lạm phát). Bên cạnh đó, cơ cấu của các nhóm chi cũng rất quan trọng. Ở cấp tổng thể nhất, tỉ trọng giữa chi thường xuyên và chi đầu tư trong tổng chi tiêu công cần phải được duy trì ở mức hợp lý, tuỳ theo mục tiêu ưu tiên phát triển của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Chi bền vững là chi tiêu phải dựa trên nguồn thu tương xứng, tức là phải đảm bảo “nguyên tắc vàng” trong cân đối ngân sách là chi thường xuyên phải được tài trợ bằng thu thường xuyên.

1.2.1.3. Thâm hụt ngân sách

Khi nghiên cứu về cân đối ngân sách thì hiện tượng thâm hụt được quan tâm đặc biệt vì đây là một hiện tượng khá phổ biến. Nó xảy ra ở hầu khắp các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị hay trình độ phát triển kinh tế với các mức độ khác nhau.Thêm nữa, những tác động của tình trạng này tới nền kinh tế cũng gây được sự chú ý vì sự ảnh hưởng có tính rộng lớn và nhiều khi là nghiêm trọng đối với nền kinh tế.

- Khái niệm về thâm hụt ngân sách

Có nhiều định nghĩa, khái niệm về thâm hụt. Đại diện trường phái tân cổ điển, các nhà kinh tế học Samuelson và Nordhalls (2002) cho rằng THNS xảy ra khi tổng chi tiêu lớn hơn tổng thu, không tính thu từ đi vay. Tương tự Begg và cộng sự (2007) khẳng định “khi chi tiêu vượt quá số thu thuế nhận được thì ngân sách sẽ thâm hụt”. Công thức tính toán được mô tả như sau:

BD = G – NT (1.1)

(trong đó BD: THNS; G: chi tiêu ngân sách cho hàng hóa và dịch vụ; NT: thuế ròng hay thuế đã trừ thanh toán chuyển nhượng)

Cùng quan điểm trên nhưng chi tiết hơn, Sachs và Larrain (1993) cho rằng THNS là hiệu số giữa tổng chi tiêu (gồm chi cho hàng hóa, dịch vụ (G), chi trả lãi (rDg-1), chi cho đầu tư (Ig)) và tổng thu (thuế ròng (T)).

Xem tất cả 257 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí