Năm | ||||||
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | |
Căn cứ theo số lượng lao động | 50.007 | 60.881 | 76.083 | 85.161 | 93.053 | 99.168 |
Căn cứ theo qui mô vốn | 37.596 | 44.633 | 54.327 | 65.758 | 71.852 | 77.474 |
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Việc Mở Rộng Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Cơ Sở Của Mô Hình Nghiên Cứu
- Kinh Nghiệm Mở Rộng Tín Dụng Đối Với Dnnvv Tại Một Số Nước Trên Thế Giới
- Tăng Trưởng Tín Dụng Của Toàn Hệ Thống
- Tình Hình Dư Nợ Tín Dụng Của Các Nhtm Trên Địa Bàn Tp.hcm
- Thang Đo Từ Chối Cấp Tín Dụng
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
Nguồn: Cục Thống kê Tp Hồ Chí Minh; Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp Hồ Chí Minh
Với số liệu thống kê như trên, n ế u xét theo qui mô lao động bình quân thì
số lượng DNNVV trên địa bàn thành phố cao hơn so với xét theo qui mô vốn bình quân. So sánh trong đề tài chỉ lựa chọn sử dụng số liệu phân theo qui mô lao động bình quân. Như vậy, ta thấy số lượng DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua các năm tăng rất nhanh, cụ thể so với năm 2007 số lượng doanh nghiệp nhỏ và
vừa năm 2008 tăng 10.874 doanh nghiệp, tăng 24,63%; so với năm 2008 số lượng
doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2009 tăng 15.203 doanh nghiệp, tăng 27,63%; năm
2010 là 85.161 doanh nghiệp,
tăng 9.078 doanh nghiệp
tương
ứng tỷ lệ tăng
11,93% so với
năm 2009; năm 2011 là 93.053 doanh nghiệp,
tăng 7.892 doanh
nghiệp
tương
ứng tỷ lệ tăng 9,26% so với năm 2010; năm 2012 tăng thêm 6.115
doanh nghiệp, tỷ lệ tăng 6,57%.
Nếu
so với
cả nước
thì số lượng DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh năm 2007 chiểm tỷ trọng 29,08%, năm 2008 chiểm tỷ trọng 29,97%, năm
2009 chiểm tỷ trọng 30,77%, năm 2010 chiếm tỷ trọng 24,33%, năm 2011 chiếm
tỷ trọng
24% và năm 2012 chiếm tỷ trọng gần
25%. Điều này đã phản ánh được
rằng thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, tài chính của Việt Nam nên đã thu hút sự đầu tư của người dân và các tổ chức trong và ngoài nước.
Phân theo loại hình doanh nghiệp, ta có các hình thức doanh nghiệp đang hoạt
động tại thành phố như: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, … Trong
đó, chiếm số
lượng đông đảo nhất là loại hình công ty
trách nhiệm hữu hạn.
DNNVV thuộc loại hình công ty TNHH chiếm tỷ trọng cao là một tất yếu khách quan, vì các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở Việt Nam chủ yếu là do các cá nhân thành lập, các cá nhân này thường là nhóm bạn bè, có quan hệ họ hàng hay một cá nhân tự đứng tên thành lập, và tâm lý không muốn có người ngoài tham gia. Ngoài ra từ khi Luật doanh nghiệp 2005 ra đời đã cho phép các cá nhân thành lập công ty TNHH một thành viên nên loại hình này cũng đã phát triển nhanh.
2.1.2. Vốn đăng ký kinh doanh của các DNNVV
Hàng năm, thành phố
Hồ Chí Minh là nơi thu hút đông đảo số
lượng lao
động từ khắp mọi miền đất nước và cũng là môi trường thuận lợi để đầu tư vốn, thành lập nên hàng ngàn doanh nghiệp mới. Bảng dưới đây cho ta thấy số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập và số vốn đăng ký từ năm 2007 đến 2012:
Bảng 2.2: Số lượng doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh và số vốn đăng ký qua các năm tại TP. HCM
Tổng các doanh nghiệp | Doanh nghiệp nhỏ và vừa | |||||
Số doanh nghiệp | Tổng vốn đăng ký (tỷ đồng) | Vốn đăng ký bình quân | Số doanh nghiệp | Tổng vốn đăng ký (tỷ đồng) | Vốn đăng ký bình quân | |
2007 | 17.519 | 153.371 | 8,75 | 16.506 | 82.802 | 5,02 |
2008 | 18.860 | 122.097 | 6,47 | 17.808 | 67.786 | 3,81 |
2009 | 23.841 | 118.408 | 4,97 | 22.559 | 67.810 | 3,01 |
20.209 | 193.387 | 9,57 | 19.061 | 110.900 | 5,82 | |
2011 | 24.413 | 182.344 | 7,47 | 21.247 | 102.168 | 4,81 |
2012 | 23.708 | 184.200 | 7,77 | 19.139 | 101.240 | 5,28 |
Nguồn: Cục Thống kê Tp Hồ Chí Minh; Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp Hồ Chí Minh
Quy mô bình quân vốn đăng ký của một DNNVV nằm trong khoảng từ 3 – 6 tỷ đồng, và có xu hướng biến động không đồng đều. Nhìn chung, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp qua các năm chưa có sự đột biến vẫn còn ở mức thấp, thậm chí còn giảm, đó cũng là nguyên nhân làm cho tỷ lệ DNNVV chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp. Sự thông thoáng của các cơ chế, chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp, tuy nhiên do hạn chế về vốn nên các doanh nghiệp thành lập có mức vốn còn khá thấp, có doanh nghiệp chỉ có vốn ban đầu từ vài chục triệu đến dưới một tỷ đồng.
2.1.3. Nhu cầu vốn của các DNNVV
Cùng với sự gia tăng về mặt số lượng các DNNVV trên địa bàn thành phố, nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng gia tăng đồng thời:
Bảng 2.3: Nhu cầu vốn bình quân của một DNNVV trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm | ||||||
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | |
Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh | 7,126 | 6,991 | 7,262 | 9,342 | 10,22 | 10,05 |
Nhu cầu vốn vay bình | 4,582 | 4,524 | 4,701 | 4,852 | 5,18 | 5,23 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Nguồn vốn có được bằng hình thức đi vay từ các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của các DNNVV hàng năm đều tăng so với năm trước, tuy nhiên các DNNVV vẫn còn nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận nguồn vốn này. Ngoài ra, các doanh nghiệp này cũng gia tăng các nhu cầu về chủng loại sản phẩm và dịch vụ từ ngân hàng như: vay ngắn hạn vốn lưu động, vay thanh toán quốc tế, vay thanh toán trong nước, vay dài hạn, thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, dịch vụ thanh toán chuyển tiền quốc tế, dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong nước, ký thác tiền, …
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM
Nguồn vốn huy động của các DNNVV thông qua hình thức vay nợ từ hệ
thống NHTM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hàng năm đều có xu hướng gia tăng so với năm trước, tuy nhiên các DNNVV vẫn còn nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận nguồn vốn này. Khó khăn càng thêm gia tăng khi nền kinh tế Việt Nam rơi
vào tình trạng lạm phát cao như
năm 2011, và tiếp tục kéo dài khó khăn do
ảnh
hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới.
Bảng 2.4: Vốn huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm | ||||||
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | |
Tổng vốn huy động | 487.028 | 585.339 | 780.200 | 766.300 | 886.900 | 973.900 |
406.352 | 502.687 | 695.500 | 699.800 | 753.800 | 821.300 | |
Dư nợ tín dụng đối với DNNVV | 167.011 | 212.637 | 322.712 | 384.890 | 412.849 | 446.374 |
Nguồn: Cục Thống kê Tp Hồ Chí Minh
Tại Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, vốn huy động của các NHTM chủ yếu là từ vốn tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp. thời gian vừa qua, việc cạnh tranh để huy động được nguồn vốn này diễn ra rất gay gắt, để huy động nguồn vốn này các NHTM đã không ngừng thay đổi chính sách lãi suất hấp dẫn đồng thời có các hình thức khuyến mãi cho khách hàng gửi tiền.
Giai đoạn 2007208, khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn biến nhanh và phức tạp cùng với lạm phát trong nước tăng cao đã ảnh hưởng đến việc thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô. Trước bối cảnh đó, NHN đã ban hành nhiều quyết định nhằm điều tiết vĩ mô về hoạt động ngân hàng như: quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quyết định cơ chế điều hành lãi suất, điều hành tỷ giá và giao dịch ngoại hối. Các
quyết định này đã có tác dụng tích cực đối với thị trường tiền tệ. Năm 2007 tổng
vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là 487.028 tỷ đồng tăng 70,6% so với năm trước. Dư nợ cho vay đối với DNNVV là 167.011 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 41,1%. Đến năm 2008, tổng vốn huy động của các ngân hàng
trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh là 585.339 tỷ
đồng tăng 20,2% so với năm
trước. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là 212.637 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 42,30%.
Năm 2009 vốn huy động đến đầu tháng 12 đạt 780.200 tỷ, tăng 33,3% so đầu
năm. Tổng dư
nợ tín dụng đạt 695.500 tỷ, tăng 38,4% so đầu năm. Tốc độ
tăng
trưởng dư nợ VND luôn cao hơn nhiều so với dư nợ ngoại tệ là do chênh lệch lãi
suất giữa VND và ngoại tệ khi thực hiện hỗ trợ lãi suất trong chương trình kích cầu của chính phủ. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ đạt 170.400 tỷ, chiếm 24,5% tổng dư nợ, tăng 24,1% so cùng kỳ; dư nợ tín dụng bằng VND tăng 51,6% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm 41,7% tổng dư nợ, tăng 34% so cùng kỳ; dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng 51,7% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là 322.712 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 46,4%. Đây là năm mà Chính phủ, NHNN cùng với các NHTM thực hiện triển khai mạnh mẽ các chương trình hỗ trợ lãi suất, chia sẻ khó khăn với các DNNVV trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động phục vụ cho xuất khẩu.
Năm 2010 do nhu cầu thanh khoản trong khoảng thời gian cuối năm, một số ngân hàng đã đầy lãi huy động bằng tiền Việt Nam lên cao. Để bình ổn lãi suất huy động vốn trên thị trường, NHNN Việt Nam đã đưa ra quy định lãi suất huy động vốn không vượt quá 14%/năm bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức. Điều này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các khi mà mức lãi suất áp dụng không còn sức hấp dẫn đối với người gửi tiền. Vốn huy động của các
ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố
đến tháng 12
ước đạt 766.300 tỷ
đồng, giảm 1,8% so năm 2009. Tuy nhiên, về dự nợ tín dụng vẫn đạt tỷ lệ tăng trường, tổng dư nợ tín dụng là 699.800 tỷ, tăng 0,6% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là 384.890 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 55,0%.
Năm 2011, tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn đạt
886.900 tỷ
đồng, tăng 15,7% so năm 2010. Vốn huy động bằng ngoại tệ
chiếm
24,7%, tăng 8,2% so với cùng kỳ, vốn huy động VNĐ chiếm 75,3% tổng vốn huy động, tăng 10,6% so với cùng kỳ. Do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ những năm trước nên môi trường kinh doanh trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh đã làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Đặc biệt, trong năm 2011, tổng cầu của nền kinh tế giảm mạnh, tiêu thụ hàng hóa gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho lớn, thị trường bất động sản đóng băng, năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút, ... làm cho tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2011 chậm lại đáng kể. Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố đến cuối năm đạt 753.800 tỷ, tăng 7,7% so năm 2010. Dư nợ tín dụng bằng VND chiếm 71% tổng dư nợ, tăng 3,7% so với cùng kỳ; dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ chiếm 29% tổng dư nợ, tăng 13,1% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là 412.849 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 54,76%. Năm 2011 thật sự là khó khăn trong hoạt động của cả khách hàng vay vốn và ngân hàng. Dư nợ năm 2011 tăng chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do việc cắt giảm dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản và tiêu dùng; việc huy động vốn tuy có tăng nhưng không ổn định, các NHTM không mạnh dạn cho vay để đảm bảo tính thanh khoản; do tình hình giá cả tăng nhanh, chỉ số lạm phát tăng, lãi suất cho vay cao, nếu đẩy mạnh cho vay sẽ không đảm bảo an toàn vốn.
Các hệ
lụy trong năm 2011 kéo dài đến tận sang năm 2012,
tốc độ
tăng
trưởng dư nợ tín dụng năm 2012 tiếp tục suy giảm. Tổng vốn huy động được của các NHTM tại Tp.HCM là 87 ngàn tỷ đồng, mức tăng 9,81%. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng này thấp hơn tỷ lệ tăng của năm 2011. Những tháng đầu năm do lạm phát tăng cao, các ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, nguồn vốn huy động trong hệ thống có xu hướng giảm. Một số NHTM quản trị rủi ro thanh khoản yếu đã thực hiện cạnh
tranh lách huy động vốn với lãi suất cao. Tuy nhiên, sau khi có chỉ thỉ của NHNN về
việc xử lý nghiêm các ngân hàng vi phạm trần lãi suất huy động vốn, hầu hết các tổ chức tín dụng đã nghiêm túc chấp hành, thị trường tiền tệ lập lại kỷ cương.
Lãi suất cho vay trong năm tuy đã được điều chỉnh nhưng tín dụng năm 2012
vẫn tăng trưởng chậm, chủ yếu do hàng hóa tồn kho cao, sức mua dân cư giảm. Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố đến cuối tháng 12 đạt 821,3 ngàn tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ, mức tăng này chưa được cải thiện đáng kể so với năm 2011 (năm 2011 có mức tăng 7,7%) trong khi con số này của năm 2010 là 0,6%. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ chiếm 25,1% tổng dư nợ, giảm 4,6% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng VNĐ chiếm 74,9% tổng dư nợ, tăng 12% so với cùng kỳ. Dư nợ trung dài hạn chiếm 42,6%, tăng 6,8%; dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm 57,4%, tăng 8% so cùng kỳ.
Nhìn chung dư nợ cho vay của NHTM đối với các DNNVV qua các năm đều tăng lên về số lượng và tỷ trọng đây là xu hướng thuận lợi cho các doanh nghiệp, mặc khác các DNNVV ngày càng được các ngân hàng chú trọng và được đưa vào nhóm khách hàng mục tiêu của nhiều NHTM. Tuy nhiên, đến nay việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng vẫn còn là vấn đề khó khăn đối với các DNNVV.
2.3. Thực trạng mở TP.HCM
rộng tín dụng
NHTM đối với DNNVV
trên địa bàn
2.3.2.1. Về dụng
chủng loại sản phẩm tín dụng, phương thức, điều kiện cấp tín
Nhằm mục tiêu gia tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị phần cấp tín dụng cho đối tượng DNNVV, các NHTM đã và đang mở rộng cung ứng các loại sản phẩm tín
dụng, đa dạng hóa phương thức cấp tín dụng, mở rộng điều kiện cho vay. Các
NHTM đã tập trung cung cấp các sản phẩm tín dụng phù hợp như: cho vay bổ sung
vốn lưu động, bảo lãnh, tài trợ cho nhu cầu mua sắm tài sản doanh nghiệp, …
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các doanh nghiệp. Loại hình cho vay chủ yếu là bổ sung vốn lưu động nhằm phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh