như: không có tài sản đảm bảo, thông tin thiếu minh bạch, thủ tục cung cấp không đầy đủ, khả năng tài chính thấp, ngành nghề sản xuất kinh doanh không khả quan,
… là cơ sở để ngân hàng từ chối cấp tín dụng cho DNNVV. Điều này làm cho nhu cầu mở rộng tín dụng đối với các DNNVV của NHTM ngày càng trở nên khó khăn. Giả thuyết thứ nhất được đề nghị như sau:
Giả thuyết H1: Khi ngân hàng càng có nhiều hơn hoặc ít đi các quyết định từ chối cấp tín dụng thì việc mở rộng tín dụng sẽ giảm hoặc tăng tương ứng.
Tiếp tục cấp tín dụng và mở rộng tín dụng
Với những doanh nghiệp đã từng có quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đây, hiện tại ngân hàng có thể xem xét tiếp tục cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp
đó dựa trên những yếu tố như: có nhiều tài sản đảm bảo hơn, lịch sử quan hệ tín
dụng tốt, có quan hệ tín dụng tốt hơn, có các mối quan hệ cá nhân, việc cho vay linh hoạt hơn, … Như vậy, khi ngân hàng quyết định tiếp tục duy trì và gia tăng quan hệ tín dụng với khách hàng cũ sẽ góp phần đáng kể vào việc mở rộng tín dụng. Vì vậy, giả thuyết thứ hai được phát biểu như sau:
Giả thuyết H2: Khi ngân hàng càng gia tăng việc tiếp tục cấp tín dụng cho DNNVV thì việc mở rộng tín dụng sẽ tăng và ngược lại.
Khó khăn khi giao dịch tín dụng và mở rộng tín dụng
Khi DNNVV muốn giao dịch tín dụng với ngân hàng nhưng lại gặp phải một số khó khăn trở ngại nhất định. Những khó khăn này làm suy giảm khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV. Và nếu không thể giải quyết được những khó khăn
này thì doanh nghiệp có thể không nhận được tài trợ
tín dụng nào từ
ngân hàng.
Những khó khăn đó thường là: báo cáo tài chính thiếu minh bạch, thiếu tài sản thế chấp hoặc không có bảo lãnh, không đủ khả năng soạn thảo phương án, thủ tục vay vốn khó khăn phức tạp, sự vô kỷ luật trong vấn đề tài chính, không có vốn đối ứng,
… Như vậy, những khó khăn này cũng ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng của NHTM. Giả thuyết thứ ba được phát biểu như sau:
Giả thuyết H3: Khi những khó khăn trong giao dịch tín dụng càng tăng hoặc giảm thì khả năng mở rộng tín dụng của NHTM càng giảm hoặc tăng tương ứng.
Chất lượng dịch vụ tín dụng và mở rộng tín dụng
Chất lượng dịch vụ tín dụng được thể hiện rõ qua cảm nhận của khách hàng và những phản ánh từ phía khách hàng được ngân hàng ghi nhận lại qua những lần giao dịch, bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất phục vụ, thái độ phục vụ, khả năng cung cấp dịch vụ nhanh chóng kịp thời, thái độ biểu cảm của khách hàng, … Chất lượng phục vụ cùng với kinh nghiệm của khách hàng là nguyên nhân quyết định toàn bộ giao dịch được gia tăng và lặp đi lặp lại một cách đáng kể, thông qua lời nói truyền miệng và việc duy trì sử dụng dịch vụ của khách hàng. Vì vậy, chất lượng dịch vụ tín dụng cũng có tác động đối với mở rộng tín dụng của NHTM. Giả thuyết thứ tư được đề nghị như sau:
Giả thuyết H4: Khi chất lượng dịch vụ tín dụng được đánh giá cao hoặc
thấp thì khả năng mở rộng tín dụng của NHTM sẽ tăng hoặc giảm tương ứng.
Giá cả tín dụng và mở rộng tín dụng
Trong giao dịch tín dụng với ngân hàng, giá cả tín dụng được nhìn nhận ở khía cạnh chi phí sử dụng vốn. Mức chi phí thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ từ ngân hàng và ngược lại. Do vậy, giá cả tín dụng có mối quan hệ nghịch biến với mở rộng tín dụng của NHTM. Giả thuyết thứ năm được phát biểu như sau:
Giả thuyết H5: Khi mức giá cả tín dụng mà ngân hàng đưa ra càng cao hoặc thấp thì mở rộng tín dụng của NHTM sẽ giảm hoặc tăng tương ứng.
1.4.2. Mô hình sử dụng nghiên cứu trong luận văn
Mở rộng tín dụng
(MORONG)
Từ chối cấp tín dụng (TUCHOI) | |
Tiếp tục cấp tín H2 (+) |
Có thể bạn quan tâm!
- Góp Phần Thúc Đẩy Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế, Cơ Cấu Lao Động Và Phân Công Lao Động Giữa Các Vùng – Địa Phương
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Việc Mở Rộng Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Cơ Sở Của Mô Hình Nghiên Cứu
- Số Lượng Doanh Nghiệp Mới Đăng Ký Kinh Doanh Và Số Vốn Đăng Ký Qua Các Năm Tại Tp. Hcm
- Tăng Trưởng Tín Dụng Của Toàn Hệ Thống
- Tình Hình Dư Nợ Tín Dụng Của Các Nhtm Trên Địa Bàn Tp.hcm
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
H1 ()
dụng (TIEPTUC)
H3 () |
Chất lượng dịch vụ tín dụng
(CHATLUONG)
H4 (+)
H5 () | |
Giá cả tín dụng (GIACA) | |
Nguồn: Thiết kế từ các lý thuyết và phân tích
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu đề nghị
Mô hình nghiên cứu được thể hiện như hình trên, trong đó bao gồm:
Các biến độc lập trong mô hình: (1) Từ chối cấp tín dụng; (2) Tiếp tục cấp tín dụng; (3) Khó khăn khi giao dịch tín dụng; (4) Chất lượng dịch vụ tín dụng và (5) Giá cả tín dụng.
Biến phụ thuộc trong mô hình là: (1) Mở rộng tín dụng.
1.5. Kinh nghiệm mở rộng tín dụng đối với DNNVV tại một số nước trên thế giới
Tại Singapore, các ngân hàng được tổ chức theo mô hình phân thành nhiều khối theo mảng nghiệp vụ và theo đối tượng khách hàng như khối ngân hàng bán buôn, khối ngân hàng bán lẻ, khối nguồn vốn, khối kinh doanh tiền tệ,… trong đó khối ngân hàng bán lẻ chuyên phục vụ khách hàng là DNNVV. Mỗi ngân hàng đều có chính sách và ban hành các sản phẩm dành riêng cho nhóm khách hàng
là DNNVV. Để phục vụ nhóm đối tượng khách hàng này, các ngân hàng sẽ thành
lập các bộ phận chuyên môn có nhiệm vụ xây dựng các chiến lược tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ, chiến lược giá dành riêng cho nhóm khách hàng DNNVV. Đặc biệt, có các chính sách ưu tiên về thủ tục, lãi suất, phí dịch vụ đối với DNNVV trong việc cung cấp sản phẩm ngân hàng.
Nhật Bản dành sự
chú ý đặc biệt với việc hỗ
trợ
tài chính
nhằm giúp DNNVV tháo gỡ khó khăn, cản trở việc tăng vốn trong quá trình sản
xuất kinh doanh như: khả năng tiếp cận thấp, thiếu sự
đảm bảo về
vốn vay,
… Có ba tổ
chức tín dụng của Chính phủ
chuyên cung cấp tín dụng cho các
DNNVV: Tổ chức tài chính nhân dân, Tổ chức tài chính Nhật Bản cho các DNNVV, Ngân hàng công thương Nhật Bản. Tổ chức tài chính nhân dân với chức năng chủ yếu là cho các DNNVV vay đặc biệt là cho vay đối với các doanh nghiệp có tính chất gia đình. Chính phủ Nhật Bản thực hiện hỗ trợ dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi suất cơ bản hoặc các khoản cho vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách, chẳng hạn kế hoạch cho vay cải tiến quản lý của các
doanh nghiệp nhỏ (kế hoạch cho vay Marukei) không đòi hỏi phải có thế chấp hoặc bảo lãnh.
Hệ thống hỗ trợ tăng cường cơ sở quản lý của các DNNVV ở từng khu vực, tuỳ theo điều kiện của khu vực, các khoản vay được thực hiện thông qua các quỹ
chung do chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cùng tài trợ.
Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý của DNNVV không đòi hỏi phải
có thế chấp hoặc bảo lãnh.
Ngoài ra, Hiệp hội bảo lãnh tín dụng còn thực hiện bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn của các TCTD tư nhân trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh. Hệ thống bảo lãnh
này có chức năng như
một mạng lưới an toàn nhằm giảm nhẹ
những rối
loạn về tín dụng và góp phần làm giảm các vụ phá sản của DNNVV.
Các biện pháp nhằm bổ sung khả năng vay vốn của DNNVV được Nhật Bản
thực hiện bằng việc thành lập hệ thống bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV. Hệ thống này giúp cho các DNNVV có khả năng phát triển mà không có
tài sản thế chấp có thể
vay vốn các NHTM. Trong hệ
thống đó, Hội bảo lãnh
tín dụng là tổ chức tài chính công cộng đứng ra bảo lãnh cho các DNNVV vay
vốn NHTM. Hỗ trợ hoạt động của hiệp hội bảo lãnh tín dụng là Hội bảo hiểm tín
dụng DNNVV do Chính phủ sáng lập ra. Hội bảo hiểm tín dụng hoạt động như
người thực hiện tái bảo hiểm khoản tín dụng mà Hội bảo lãnh tín dụng đã thực hiện. Nhờ đó, các DNNVV của Nhật Bản mở rộng được khả năng vay vốn từ các NHTM.
Ở Malaysia, một tổ chức tài chính và chính sách của Chính phủ đã
được thiết lập nhằm cung cấp tín dụng nhiều hơn cho các DNNVV, việc cung cấp vốn được xem xét trên cơ sở tính thích hợp của những cơ sở công nghiệp nhằm
nghiên cứu khả thi, phát triển và thiết kế sản phẩm cũng như các hoạt động nghiên cứu của DNNVV.
Đối với Hàn Quốc, Chính phủ
cũng thành lập các tổ
chức tài chính
chuyên đảm nhận việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho các DNNVV và các doanh
nghiệp mới thành lập. Ngân hàng công nghiệp vừa và nhỏ (SMIB) do Chính phủ
thành lập nhằm chuyên môn hóa trong công tác tài trợ cho DNNVV. Quỹ phát triển công nghiệp vừa và nhỏ được hình thành từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, chịu sự quản lý của Ngân hàng công nghiệp vừa và nhỏ và Ngân hàng quốc gia cho công dân.
Năm 1976, Hàn Quốc đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng do Chính phủ và các thể chế tài chính đồng tài trợ. Quỹ này bảo lãnh cho các DNNVV có thể vay vốn ở NHTM. Ngoài biện pháp bảo lãnh tín dụng, để tăng khối lượng tín dụng cung cấp cho DNNVV, Chính phủ một số nước còn áp dụng biện pháp quy định buộc các tổ chức tín dụng phải dành một tỷ lệ tín dụng nhất định để cung cấp cho các DNNVV. Tại Hàn Quốc, Chính phủ quy định tỷ lệ bắt buộc đối với NHTM quốc gia là 45% tín dụng cho các DNNVV, còn đối với NHTM địa phương thì tỷ lệ tối thiểu đó là 80%. Ngay cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng phải dành 35% tín dụng cho DNNVV.
Chính phủ Indonesia cũng áp dụng biện pháp quy định bắt buộc đối với các NHTM phải dành ít nhất 20% tổng số tín dụng để cho các DNNVV vay.
Hệ thống bảo lãnh tín dụng cũng được hầu hết các nước Châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Philippin thực hiện.
Qua một số kinh nghiệm của một số quốc gia, có thể thấy rằng hai biện pháp hỗ trợ chủ yếu được sử dụng là: thực hiện tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng. Cho dù đối với nền kinh tế phát triển hay đang phát triển thì vai trò của các DNNVV cũng đều hết sức quan trọng và đều được Chính phủ các nước quan tâm tạo điều kiện phát triển. Hầu hết nguồn ngân sách Chính phủ của các quốc gia đều hạn chế, trong khi nhu cầu trợ giúp của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng là rất lớn và nhìn chung đều vượt quá khả năng của Chính phủ. Trong mỗi giai đoạn nhất định, mỗi quốc gia đều lựa chọn một số lĩnh vực mà quốc gia mình có lợi thế để tập trung phát triển. Với nguyên tắc trợ giúp có trọng điểm, có thể việc trợ giúp chỉ thực hiện được với một số ít doanh nghiệp, nhưng đảm bảo rằng sau khi nhận được sự trợ giúp, doanh nghiệp đó có thể có được khả năng cạnh tranh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày cơ sở lý thuyết về DNNVV, tín dụng NHTM đối với DNNVV, mở rộng tín dụng NHTM đối với DNNVV, trình bày các yếu tố có ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng và mối liên hệ của chúng đối với việc mở rộng tín dụng. Trong chương này, nghiên cứu cũng đã xây dựng mô hình sử dụng nghiên cứu cho luận văn.
Chương tiếp theo, nghiên cứu sẽ trình bày, phân tích nội dung thực trạng mở rộng tín dụng đối với các DNNVV của các NHTM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh dựa trên các số liệu thứ cấp, từ đó rút ra những điểm tích cực đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của hạn chế.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNNVV CỦA CÁC NHTM TRÊN ĐỊA BÀN TP HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát thực trạng của các DNNVV
2.1.1. Số lượng các DNNVV trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thời gian qua
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, tài chính lớn nhất cả nước, do đó hàng năm có hàng ngàn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong đó chủ yếu là các DNNVV. Tính đến hết năm 2011 thành phố Hồ Chí Minh có hơn
90.000 DNNVV, chiếm tỷ lệ hơn 24% tổng số DNNVV trong cả nước. Năm 2012
có gần 100.000 DNNVV tại thành phố, chiếm tỷ lệ nghiệp.
lên đến 25% tổng số
doanh
Bảng 2.1: Số lượng DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: Doanh nghiệp