Người Lao Động Tham Gia Ctcp Với Tư Cách Là Cổ Đông

DNNN sau CPH là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. CTCP có chế độ TNHH, đó là trách nhiệm của các chủ sở hữu doanh nghiệp, được giới hạn trong phạm vi tỉ lệ số vốn đã góp vào vốn điều lệ của công ty. Có cấu trúc vốn mở, tư cách của các cổ đông được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty ngoài phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ. DNNN sau CPH là công ty đối vốn, trong đó các thành viên liên kết với nhau dựa trên cơ sở vốn góp. Tỷ lệ vốn gốp là yếu tố quyết định vị thế, quyền, lợi ích và nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên trong CTCP.

Tổ chức bộ máy, quản lý điều hành của DNNN sau CPH được cấu trúc theo mô hình: Đại hội cổ đông - Hội đồng quản trị - Ban Kiểm soát - Ban Giám đốc điều hành. Tuy nhiên sau cổ phần hóa, đa phần chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc. Ưu điểm của việc kiêm nhiệm này là tiết kiệm được chi phí quản lý cho doanh nghiệp, hạn chế được những xung đột giữa quản lý và điều hành có thể có giữa HĐQT và Ban Giám đốc, xong hạn chế của mô hình kiêm nhiệm là chưa tách bạch giữa quản lý và điều hành, không thích hợp với cơ chế quản trị công ty hiện đại, khó thực hiện chức năng bảo về quyền lợi của các cổ đông cũng như giám sát bộ máy quản lý trong điều hành và sử dụng vốn đầu tư của các cổ đông trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.

DNNN sau CPH hoạt động theo mô hình CTCP hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động theo nguyên tắc thương mại bình thường, không được nhà nước bao cấp. Các vấn đề lỗ lãi do doanh nghiệp chủ động giải quyết một cách độc lập. Khi muốn huy động nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có quyền phát hành cổ phiếu ra thị trường theo quy định của pháp luật về thị trường chứng khoán.

2.1.2.2.3. Cổ đông Nhà nước

Trong các DNNN sau CPH, Nhà nước tham gia CTCP với tư cách là một cổ đông như mọi cổ đông khác. Sự tham gia của cổ đông Nhà nước trong DNNN sau CPH chủ yếu xuất phát từ 2 nguyên nhân: một là, giữ lại cổ phần nhà nước có chủ đích để chi phối hoặc không chi phối; hai là, công ty không

bán hết cổ phần, nên cổ đông Nhà nước phải tham gia một cách thụ động. Do tính chất tập trung của cổ phần Nhà nước, cổ đông nhà nước có một vị trí đặc biệt trong cơ cấu cổ đông của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Trong quá trình phát triển của DNNN sau CPH, địa vị của Nhà nước trong doanh nghiệp có thể được thay đổi. Nhà nước quyết định tham gia với tư cách cổ đông theo hình thức nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: sau cổ phần hóa, CTCP khó bán cổ phiếu, Nhà nước sẽ trở thành cổ đông chi phối; hoặc căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các DNNN sau CPH; căn cứ vào mục đích mà nhà nước đặt ra đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa…

Về lộ trình tham gia của Nhà nước, đối với một số DNNN sau CPH, Nhà nước có thể giữ cổ đông chi phối lâu dài để kiểm soát lĩnh vực do doanh nghiệp nắm giữ, mặt khác Nhà nước cũng có thể bán bớt một phần cổ phiếu của mình sở hữu trong CTCP, hoặc khi CTCP hoạt động tốt, mục tiêu mà Nhà nước đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước sau CPH không cần nữa thì Nhà nước sẽ rút khỏi CTCP.

Ở góc độ đại diện cổ đông Nhà nước, tùy theo doanh nghiệp cổ phần hóa từ DN hay bộ phận DN thuộc Bộ, UBND cấp tỉnh, TCT, Cty Nhà nước độc lập mà các cơ quan, tổ chức, DN tương ứng này đứng ra là đại diện cổ phần Nhà nước tại DNNN sau CPH. Các cơ quan, tổ chức, DN không trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cổ đông Nhà nước mà họ tiếp tục giao cho người đại diện để trực tiếp quản lý tại doanh nghiệp có cổ phần nhà nước (người đại diện có thể là một người hoặc một nhóm người, có thể ở trong hoặc ở ngoài DN). Tỉ lệ cổ phần người đại diện (nhóm người) nắm giữ được quy định trong quyết định cử người đại diện tham gia CTCP với tư cách là cổ đông, thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước.

Ở các DNNN sau CPH mà Nhà nước là cổ đông chi phối thì cơ chế quản lý và điều hành doanh nghiệp ít có động lực thay đổi. Về lâu dài, các DNNN sau CPH mong muốn triển khai ngay việc chuyển giao quyền chủ sở hữu cổ phần Nhà nước cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước đã được hình thành. Trong tương lai, vị trí, vai trò của cổ đông nhà nước sẽ giảm bớt thông qua việc giảm bớt cổ phần Nhà nước ở CTCP.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 213 trang tài liệu này.

2.1.2.2.4. Người lao động tham gia CTCP với tư cách là cổ đông

Quá trình thực hiện cổ phần hóa, cách thức thường thấy khi triển khai đó là cổ phần hóa nội bộ, từ đó cho thấy rõ cơ cấu cổ đông với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong DNNN sau CPH, người lao động tham gia với tư cách vừa cổ đông, người góp vốn vào doanh nghiệp, vừa là người lao động trực tiếp. Với vị trí, vai trò mới này, đòi hỏi người lao động phải có trách nhiệm lớn hơn với doanh nghiệp, buộc người lao động phải quan tâm hơn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì lợi ích của người lao động (lương, cổ tức...) gắn liền với hiệu quả của doanh nghiệp.

Mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa: nghiên cứu trường hợp Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam - 8

Tuy nhiên, đặc điểm cổ đông người lao động trong DNNN sau CPH có tính phân tán, rời rạc. Dưới góc độ thực tế, cổ đông người lao động chỉ được ứng xử như các cổ đông cá nhân thông thường, thậm chí xét về số lượng cổ phần nắm giữ thì từng cá nhân người lao động là những cổ đông nhỏ nhất, nhiều khi nhỏ hơn cả cổ đông cá nhân từ bên ngoài. Một khía cạnh khác cho thấy, cổ đông người lao động, do không được cung cấp thông tin chi tiết về công ty nên các cổ đông nhỏ là người lao động không hiểu được thực chất công ty, cảm thấy bị đứng ngoài, không có tâm lý mình là chủ sở hữu công ty, thậm chí, một số người lao động coi DNNN sau CPH là người vay và họ là người cho vay vốn.

Mặt khác, đa phần người lao động trong DNNN sau CPH hoạt động trong môi trường DNNN trước đây, quen với chế độ làm việc suốt đời, an sinh cao hơn, gắn liền với chế độ, chính sách trợ cấp từ Nhà nước, do đó khi chuyển sang CTCP, họ ít năng động, tri thức, kỹ năng của cổ đông hạn chế. Nhiều cổ đông là người lao động trong DNNN sau CPH từ vị trí nhà đầu tư đã trở thành người gửi tiết kiệm. Đa phần người lao động trở thành cổ đông một cách bị động, họ không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của CTCP như quyết định định hướng, chiến lược, mục tiêu, sử dụng lợi nhuận tại đại hội cổ đông.

2.1.2.2.5. Kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh sau cổ phần hóa

Sau cổ phần hóa, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều tiến triển tích cực. Các chỉ tiêu cơ bản đều tăng trưởng tốt

hơn khi còn là DNNN. Đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều cho rằng tình hình tài chính tốt hơn so với trước. Tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh những năm sau cổ phần hóa tăng đều, duy trì trong suốt quá trình từ khi hình thành CTCP; doanh thu tăng, tỷ suất lợi nhuân sau thế trên doanh thu cũng tăng; năng suất lao động cũng tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng của doanh thu.

Tính tích cực của kết quả và hiệu quả trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có những ảnh hưởng tích cực của mô hình tổ chức và phương thức quản lý, điều hành; thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh; đặc biệt việc nâng cao động cơ hoạt động cho cả cán bộ quản lý và người lao động; chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

2.1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

2.1.2.3.1. Doanh nghiệp nhà nước sau CPH là công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện chính sách xã hội

Những DNNN sau CPH đa phần hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như xăng dầu, vận tải, viễn thông, khoáng sản... Đây là những ngành, những lĩnh vực cần nguồn vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, do đó chỉ những DNNN, CTCP có sự góp vốn lớn của Nhà nước (hay sự tham gia của Nhà nước) mới có đủ sức đầu tư vào các lĩnh vực này. Do việc nắm gần như toàn bộ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong các ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, nên một số DNNN sau CPH được xác định là công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường, kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng trưởng.

Với tư cách là công cụ của Nhà nước, các DNNN sau CPH còn thực hiện các mục tiêu mang tính xã hội, thực hiện chính sách xã hội, cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, tạo môi trường phát triển công bằng.

Thông qua hoạt động của DNNN sau CPH, Nhà nước có thể xây dựng các DNNN, các tập đoàn kinh tế, các TCT lớn có khả năng cạnh tranh, có năng lực đầu tư ra nước ngoài, giúp Nhà nước kiểm soát một lĩnh vực rộng lớn. Mặt khác, qua đó giúp Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực sinh lời thấp nhưng tạo môi trường hiệu quả chung cho nền kinh tế.

2.1.2.3.2. Doanh nghiệp NN sau CPH là hình thức đầu tư có lợi của Nhà nước

Thông qua các DNNN sau CPH, với tư cách là cổ đông trong doanh nghiệp, Nhà nước kiểm soát được nguồn vốn đầu tư. Với cơ chế đặc thù trong hoạt động của CTCP đã cho phép Nhà nước có được sự tách biệt rõ ràng giữa tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp, đồng thời tạo cơ chế để Nhà nước kinh doanh tài sản của mình một cách hiệu quả hơn.

Sau cổ phần hóa, Nhà nước có thể thu hồi được vốn từ các doanh nghiệp cổ phần hóa để tái đầu tư sang các lĩnh vực khác thiết yếu hơn, dịch chuyển nguồn vốn nhà nước sang các lĩnh vực của nền kinh tế mà qua đó nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước, phù hợp với vị thế của Nhà nước. Do đó, sự tham gia của Nhà nước vào DNNN sau CPH với tư cách là cổ đông là một hình thức đầu tư có lợi của Nhà nước, cả dưới góc độ kinh tế cũng như việc thực hiện các mục tiêu xã hội khác.

2.1.2.3.3. Giúp nhà nước tái cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thích nghi với kinh tế thị trường

Các DNNN trước cổ phần hóa gắn với hình thức đơn sở hữu, hay chỉ thuộc sở hữu Nhà nước. Đa phần vốn điều lệ ở các doanh nghiệp là vốn Nhà nước theo tỷ lệ 100%, trên 50% hoặc dưới 50% tùy theo yêu cầu nắm giữa của Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của các DNNN, Nhà nước phát huy quyền cổ đông của mình thông qua các cơ quan quản lý hoặc người đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Việc này đã dẫn tới những hệ quả như hành chính hóa, sự can thiệp quá sâu của cơ quan quản lý Nhà nước vào công tác điều hành, ra quyết định quản lý, giảm tính năng động, hiệu quả của DNNN.

Do đó, mục đích của việc cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam chủ yếu là để Nhà nước tái cơ cấu lại hệ thống DNNN theo hướng hiệu quả, thích nghi với kinh tế thị trường và gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu tái cơ cấu hệ thống DNNN được đặt cao hơn mục tiêu chuyển đổi sở hữu Nhà nước trong DNNN cho khu vực tư nhân. Như vậy, thực hiện cổ phần hóa cũng như hoạt động của DNNN sau CPH sẽ là cơ sở giúp nhà nước tái cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thích nghi với kinh tế thị trường.

2.1.2.3.4. Giải quyết khó khăn về vốn cho sản xuất, kinh doanh của DN

Trước cổ phần hóa DNNN, với hệ thống DN với 100% vốn nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước này vướng phải những khó khăn liên quan đến nguồn vốn hoạt động. Những vướng mắc đó thể hiện: Nhà nước với nguồn ngân sách không đủ khả năng cung cấp vốn cho các DNNN hoạt động; doanh nghiệp nhà nước hoạt động thụ động, không có động lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh hướng đến mục tiêu lợi nhuận; hạn chế quy mô ảnh hưởng và kiểm soát nguồn vốn trong doanh nghiệp Nhà nước.

Sau cổ phần hóa, DNNN có ưu điểm là tạo ra loại hình doanh nghiệp đa sở hữu, từ đó đổi mới quản trị doanh nghiệp, có cơ chế quản lý kinh doanh năng động, hiệu quả thích nghi với KTTT. Huy động thêm nguồn vốn xã hội, khắc phục thiếu vốn kinh doanh triền miên của DNNN. Mặt khác Nhà nước thu về nguồn vốn lớn từ bán cổ phần để đầu tư cho mục đích khác. Sau cổ phần hóa, tạo quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp, giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào doanh nghiệp. Tạo cơ sở thúc đẩy thị trường chứng khoán, góp phần hình thành thêm một phương thức phân bổ thị trường vốn, giải quyết khó khăn về vốn cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong DNNN sau cổ phần hóa, cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa đã được đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Khắc phục được những bất cập của cơ chế quản lý phân tán và những quy định chưa phù hợp. Bổ sung các nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp xử lý những vấn đề tồn tại sau cổ phần hóa. Tạo ra môi trường để từng bước chuyển cơ chế từ cấp vốn trực tiếp từ ngân sách Nhà nước sang cơ chế đầu tư vốn qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, tạo ra sự thuận lợi về vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN sau CPH.

2.1.2.3.5. Tạo ra cơ chế vận hành, quản lý thích hợp, thu hút được công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao

Sau cổ phần hóa, chuyển DNNN sang hoạt động theo mô hình CTCP đã tách rời các quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền kinh doanh, từ đó giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực tương ứng thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động của DNNN. Qua việc chuyển đổi này, tạo ra cơ chế để DNNN sau CPH được tổ chức, vận hành, quản lý, kiểm soát một cách phù hợp, thu hút được công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao.

Sau cổ phần hóa DNNN, việc đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa; sự mở rộng, đa dạng hóa nguồn vốn đã giải quyết được nhu cầu về mở rộng đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị, ứng dụng công nghệ, nghiên cứu phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường. Đặc biệt, thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao, cả dưới góc độ nhân lực quản lý, người lao động, đẩy mạnh liên kết với nhà khoa học, các tổ chức khoa học, công nghệ qua đó tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh.

2.1.3. Mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

2.1.3.1. Khái niệm mô hình quản lý DNNN sau cổ phần hóa

* Mô hình doanh nghiệp nhà nước:

Mô hình doanh nghiệp nhà nước được hiểu với tư cách là hệ thống các tổ hợp, các yếu tố, các công ty có mục tiêu độc lập tương đối, có sự tương tác, quan hệ liên kết nhất định với nhau, do nhà nước sở hữu vốn điều lệ hoặc có cổ phần để thực hiện mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp.

* Mô hình quản lý doanh nghiệp:

Mô hình quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa là biểu hiện cụ thể của quá trình hoạt động và tác nghiệp của DNNN sau CPH, đó là việc hoạch định, tổ chức, chỉ đạo, quản trị, kiểm soát và cải tiến hoạt động nhằm hướng tới và đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế.

* Đổi mới mô hình quản lý doanh nghiệp

Đổi mới mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa chính là đổi mới quá trình hoạt động và tác nghiệp của DNNN sau CPH, đó là việc đổi mới hoạch định, tổ chức, chỉ đạo; đổi mới quản trị, kiểm soát toàn diện và cải tiến các hoạt động của DNNN sau CPH nhằm hướng tới và đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế cao hơn, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, một nội dung quan trọng đó là việc quản lý, giám sát toàn diện và hiệu quả DNNN cần mang tính tập trung cao, tách bạch được chức năng chủ sở hữu Nhà nước và chức năng quản trị sản xuất - kinh doanh. Việc lựa chọn mô hình quản lý mới đối với DNNN sau CPH cần tách bạch chức năng chủ sở hữu nhà nước

với chức năng quản lý nhà nước, cần xác định rõ nhà nước với tư cách là chủ sở hữu có các chức năng cơ bản như: (1) Là một nhà đầu tư doanh nghiệp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư. (2) Hướng dẫn và thúc đẩy thực hiện tái cơ cấu DNNN để ngày càng hiệu quả hơn. (3) Giám sát để đảm bảo việc sử dụng một cách hiệu quả, bảo toàn và phát triển tài sản nhà nước tại DNNN.

2.1.3.2. Ý nghĩa của đổi mới mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Quá trình cổ phần hóa và đổi mới mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa đã bắt đầu cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, doanh nghiệp vận dụng theo tín hiệu thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước có quyền hơn, chủ động hơn trong sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp Nhà nước chủ động huy động vốn, được chủ động sử dụng lợi nhuận sau thuế để tích tụ, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.

Mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, chuyển đổi cơ chế làm cho doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa năng động hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng như kết cấu hạ tầng kỹ thuật năng lượng, dầu khí, giao thông, bưu chính viễn thông… đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

Quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới mô hình quản lý DNNN sau cổ phần hóa có tính phổ biến, gắn với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Đổi mới mô hình quản lý gắn liền với việc sắp xếp và chuyển một số doanh nghiệp nhà nước tiến lên hình thành các tập đoàn Công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới, là con đường hữu hiệu để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước.

Mô hình quản lý DNNN sau cổ phần hóa nhằm thực hiện đổi mới quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu, tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn

Xem tất cả 213 trang.

Ngày đăng: 09/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí