trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều đó tạo thuận lợi cho việc quản lý hệ thống giáo dục một cách nhất quán, nhưng cũng làm cho việc quản lý ngành phức tạp hơn và có phạm vi rộng lớn hơn, đặt ra những yêu cầu cao đối với tổ chức và đội ngũ quản lý giáo dục - đào tạo. Để quán triệt đường lối đổi mới đổi mới của đại hội Đảng lần thứ VI, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị giáo dục tháng 7/1987, đã đề ra 10 tư tưởng chỉ đạo giáo dục phổ thông, xây dựng chương trình phát triển giáo dục 1987-1990 với một hệ thống đề án gồm 38 chỉ tiêu, trong đó có những đề án về phổ cập giáo dục cấp I, xoá mù chữ, tổng kết kinh nghiệm và điều chỉnh cải cách giáo dục, xây dựng đội ngũ giáo viên, biên soạn sách giáo khoa, gắn nhà trường với lao động, sản xuất. Trên cơ sở đó Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 16/CT ngày 1/8/1987 về phương hướng, nhiệm vụ, phát triển giáo dục 3 năm 1987-1990. Trong bối cảnh biến động của khủng hoảng kinh tế - xã hội phương hướng chung của Bộ giáo dục và Đào tạo là phấn đấu ổn định và phát triển sự nghiệp giáo dục bằng nhiều chủ chương, giải pháp phù hợp với điều kiện ở các địa phương. Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, các hình thức giáo dục, dân chủ hóa hoạt động của nhà trường, xã hội hóa giáo dục, xây dựng nền nếp, kỷ cương trong trường học. Hàng năm, Bộ giáo dục và Đào tạo dã tổ chức các hội nghị cán bộ chủ chốt ngành giáo dục để quán triệt nghị quyết đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Trung ương IV khóa VII (tháng 1/1993) để định ra phương hướng, chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Trong đó, trình Chính phủ ban hành nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 Quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ, xây dựng các trường trọng điểm ở các ngành học, bậc học, xây dựng các trung tâm chất lượng cao, tình Chính phủ ban hành các Nghị định thành lập các đại học quốc gia, đại học khu vực, thành lập các trường đại học dân lập… Pháp luật về giáo dục đã từng bước được hình thành và không ngừng
phát triển bước đầu đã thu được những thành quả quan trọng về việc mở rộng
quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Các văn kiện của Trung ương Đảng và chính phủ về công tác giáo dục, sắc lệnh của nhà nước, các quyết định, chỉ thị, thông tư của chính phủ, của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục được ban hành ngày càng nhiều điều chỉnh từng nội dung công việc cụ thể như: chế độ đối với giáo viên, chế độ đối với học sinh, sinh viên, chế độ đối với lưu học sinh, các quy định đối với nhà trường trong các cấp học, bậc học, chế độ thu chi tài chính của nhà trường…
Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã kịp thời thay đổi tư duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương kịp thời và thích hợp trong giai đoạn chuyển đổi. Chủ trương bao trùm, chi phối toàn bộ quá trình đổi mới giáo dục thể hiện trong pháp luật về giáo dục giai đoạn này là chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
2.4.2. Luật giáo dục năm 1998 và hệ thống văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Để quản lý hoạt động giáo dục, phát triển giáo dục, từ năm 1945 đến năm 1998, Nhà nước đã ban hành gần 1000 văn bản pháp luật về giáo dục dưới hình thức sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư,... Các văn bản pháp luật về giáo dục đã góp phần đảm bảo thực hiện mục đích và mục tiêu giáo dục đó là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, văn bản về giáo dục còn phân tán, có hiệu lực pháp lý không cao. Với quan điểm coi giáo dục là một vấn đề quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, vấn đề xây dựng một đạo luật về giáo dục đã được Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đề ra. Cùng với sự đổi mới kinh tế -
xã hội của đất nước, với tư tưởng xây dưng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, yêu cầu hội nhập về pháp luật giáo dục với khu vực và thế giới đòi hỏi lĩnh vực giáo dục phải được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, pháp điển hóa các quy định về giáo dục còn phân tán thành quy định của Luật giáo dục.
Luật giáo dục 1998 bao gồm đoạn mở đầu và 9 chương 110 Điều quy định một cách hệ thống từ những vấn đề chung như mục tiêu, tính chất, nguyên lý của giáo dục Việt Nam đến những vấn đề về tổ chức và hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân với kết cấu và nội dung cơ bản:
Đoạn mở đầu quy định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn dân. Để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh cần ban hành Luật giáo dục.
Chương I. Những quy định chung, gồm 17 điều (từ Điều 1 đến Điều
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Pháp Điển Pháp Luật Về Giáo Dục Ở Nước Ta
- Pháp Luật Về Giáo Dục Từ Ngày Thành Lập Nước Đến Khi Kết Thúc Cuộc Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp (1945 - 1954)
- Pháp Luật Về Giáo Dục Thời Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước (1954 - 1975)
- Việc Xây Dựng Hệ Thống Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Về Giáo Dục
- Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 8
- Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 9
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
17) quy định về phạm vi điều chỉnh; mục tiêu giáo dục; tính chất, nguyên lý giáo dục; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục; ngôn ngữ dùng trong nhà trường; hệ thống giáo dục quốc dân; văn bằng, chứng chỉ; phát triển giáo dục; quyền và nghĩa vụ học tập của công dân; phổ cập giáo dục; xã hội hóa sự nghiệp giáo dục; đầu tư cho giáo dục; quản lý nhà nước về giáo dục; vai trò của nhà giáo; nghiên cứu khoa học; không truyền bá tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục.
Chương II. Hệ thống giáo dục quốc dân, gồm 26 (từ Điều 18 đến Điều 43) quy định về giáo dục mầm non (giáo dục mầm non; mục tiêu của giáo dục mầm non; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm non;
cơ sở giáo dục mầm non); giáo dục phổ thông (giáo dục phổ thông; mục tiêu của giáo dục phổ thông; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông; sách giáo khoa; cơ sở giáo dục phổ thông; văn bằng giáo dục phổ thông); giáo dục nghề nghiệp (giáo dục nghề nghiệp; mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục nghề nghiệp; giáo trình trung học chuyên nghiệp, giáo trình dạy nghề dài hạn; cơ sở giáo dục nghề nghiệp; văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp); giáo dục đại học và sau đại học (giáo dục đại học và sau đại học; mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học và sau đại học; giáo trình cao đẳng, giáo trình đại học; cơ sở giáo dục đại học và sau đại học; văn bằng giáo dục đại học và sau đại học); phương thức giáo dục không chính quy (giáo dục không chính quy; yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục không chính quy; cơ sở giáo dục không chính quy; văn bằng, chứng chỉ giáo dục không chính quy).
Chương III. Nhà trường và cơ sở giáo dục khác, gồm 16 điều (từ Điều 44 đến Điều 60) quy định về tổ chức và hoạt động của nhà trường (nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân; điều kiện thành lập; thẩm quyền thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà trường; điều lệ nhà trường; hiệu trưởng; hội đồng tư vấn trong nhà trường; tổ chức Đảng trong nhà trường; đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường); nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường (nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường; nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học trong nghiên cứu khoa học, phục vụ xã hội; quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường cao đẳng, trường đại học); các loại trường chuyên biệt (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học; trường chuyên, trường
năng khiếu; trường, lớp dành cho người khuyết tật; trường giáo dưỡng); tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác (các cơ sở giáo dục khác).
Chương IV. Nhà giáo, gồm 12 điều (từ Điều 61 đến Điều 72) quy định về nhiệm vụ và quyền của nhà giáo (nhà giáo; giáo sư, phó giáo sư; nhiệm vụ của nhà giáo; quyền của nhà giáo; thỉnh giảng; ngày nhà giáo Việt Nam); đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo (trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo; trường sư phạm; đào tạo nhà giáo cho trường cao đẳng, trường đại học); chính sách đối với nhà giáo (bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; tiền lương; chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn);
Chương V. Người học gồm 12 điều (từ Điều 73 đến Điều 85) quy định về nhiệm vụ và quyền của người học (người học, nhiệm vụ của người học; quyền của người học; nghĩa vụ của người học tại trường cao đẳng, trường đại học công lập); chính sách đối với người học (học bổng, trợ cấp xã hội; chế độ cử tuyển; tín dụng giáo dục; miễn, giảm phí dịch vụ công cộng cho học sinh, sinh viên).
Chương VI. Nhà trường, gia đình và xã hội, gồm 5 điều (từ Điều 81 đến Điều 85) quy định về trách nhiệm của nhà trường; trách nhiệm của gia đình; quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh; trách nhiệm của xã hội; quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ xã hội.
Chương VII. Quản lý nhà nước về giáo dục bao gồm 18 điều (từ Điều 86 đến Điều 103) quy định về nội dung quản lý nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục (nội dung quản lý nhà nước về giáo dục; cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục); đầu tư cho giáo dục (các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục; ngân sách nhà nước chi cho giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng trường học; khuyến khích đầu tư cho giáo dục; học phí, lệ phí tuyển sinh, tiền đóng góp xây dựng trường); quan hệ quốc tế về giáo dục (quan hệ quốc tế về
giáo dục; khuyến khích hợp tác về giáo dục với nước ngoài; khuyến khích hợp tác về giáo dục với Việt Nam; công nhận văn bằng nước ngoài); thanh tra giáo dục (thanh tra giáo dục; nhiệm vụ của thanh tra giáo dục; quyền hạn của thanh tra giáo dục; trách nhiệm của thanh tra giáo dục; quyền của đối tượng thanh tra; trách nhiệm của đối tượng thanh tra).
Chương VIII. Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 5 điều (từ Điều 104 đến Điều 108) quy định về phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú; khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân có thành tích về giáo dục; khen thưởng đối với người học; phong tặng danh hiệu tiến sĩ danh dự; xử lý vi phạm.
Chương IX. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 109 và Điều 110) quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.
Sau khi ban hành Luật giáo dục (1998) Quốc hội tiếp tục ban hành hai nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 và số 41/2000/NQ-QH10, chính phủ ban hành 8 nghị định, Thủ tướng chính phủ ban hành 40 quyết định và chỉ thị và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo thẩm quyền 166 văn bản đã tạo hành lang pháp lý cơ bản cho tổ chức và hoạt động giáo dục. Cơ quan quản lý giáo dục ở các địa phương và các nhà trường đã năng động, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của ngành, tham mưu cho cấp uỷ đảng và chính quyền xây dựng các chính sách cho cán bộ, giáo viên và học sinh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương mình.
2.4.3. Luật giáo dục năm 2005 việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục
2.4.3.1. Luật giáo dục 2005
Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 2 tháng 12 năm 1998 là cơ sở pháp lý quan trọng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Qua 7 năm thực hiện, Luật giáo dục 1998 đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo dục được đổi mới và từng bước kiện toàn; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động giáo dục và nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân đã xuất hiện một số bức xúc do thực tiễn đặt ra, cần được quy định cụ thể hơn hoặc sửa đổi một cách cơ bản, tạo cơ sở pháp lý để phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, đáp ứng ngày càng cao sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Các quan điểm cơ bản và chủ trương của Đảng trong các văn kiện về phát triển sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ mới cần thiết phải được thể chế hóa trong Luật giáo dục (sửa đổi). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định những quan điểm và phương hướng cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, thực hiện công bằng trong giáo dục. Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa IX năm 2002 có những kết luận quan trọng về giáo dục, trong đó xác định những nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cần tập trung thực hiện.
Sửa đổi Luật giáo dục năm 1998 để xác định rõ hơn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động giáo dục và sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý giáo dục, giữa các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục. Trong những năm qua, quan điểm “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” chưa được nhận thức đầy đủ trong xã hội, chưa thực sự chi phối sự chỉ đạo tổ chức thực tiễn của nhiều cán bộ quản lý và cấp quản lý, kể cả về đầu tư cho giáo dục và tạo cơ chế cho tổ chức hoạt động giáo dục. Trong quản lý về giáo dục chưa tạo ra được sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục. Sự
phối, kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội chưa được triển khai thực hiện đúng mức. Nhu cầu về tạo cơ chế phối hợp đồng bộ trong hoạt động giáo dục và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đặt ra những yêu cầu bức xúc sửa đổi Luật giáo dục năm 1998.
Sau khi Luật giáo dục năm 1998 được ban hành, hoạt động giáo dục đã có những bước tiến bộ và phát triển, nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, bất cập cả về chất lượng giáo dục, tổ chức, hoạt động giáo dục và quản lý nhà nước về giáo dục. Việc ban hành Luật giáo dục là bức xúc và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý khắc phục những khó khăn, yếu kém và đáp ứng những nhu cầu mới phát sinh trong lĩnh vực giáo dục. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt trong thế kỷ XXI, vấn đề đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Luật giáo dục 2005 nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Luật giáo dục 2005 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của Luật giáo dục năm 1998 đã phát huy tác dụng tích cực, tạo hành lang pháp lý trong tổ chức và hoạt động giá dục đào tạo. Do đó, Luật giáo dục năm 2005 đã thừa kế và phát triển nhiều nội dung của Luật giáo dục năm 1998. Những nội dung mới được bổ sung bao gồm các quy định nhằm tập trung giải quyết năm nhóm vấn đề:
- Một là, hoàn thiện một bước về hệ thống giáo dục quốc dân, khẳng định vị trí của giáo dục thường xuyên, phát triển giáo dục nghề nghiệp theo ba cấp đào tạo, tăng khả năng liên thông, phân luồng giữa các bộ phận của hệ thống;
- Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, xác định rõ yêu cầu về chương trình giáo dục, về điều kiện thành lập trường, xác định những tiêu