sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật chính là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân; tri thức pháp luật càng đầy đủ, sâu sắc thì khả năng đánh giá và tự điều chỉnh hoạt động của chủ thể càng chính xác, đúng đắn và hợp pháp. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mục đích nhận thức có vị trí quan trọng trong GDPL còn xuất phát bởi thực trạng hiểu biết về pháp luật của nhân dân, của đội ngũ cán bộ, công chức còn rất hạn chế. Một bộ phận cán bộ, nhân dân, vì không hiểu biết pháp luật, hoặc hiểu biết không đầy đủ đã vi phạm pháp luật, hoặc không dám đòi hỏi, không biết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hai là, mục đích cảm xúc - nhằm hình thành thái độ và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
Thực tiễn cho thấy những hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội thường tác động lên tâm lý mỗi người, mỗi cộng đồng khác nhau, và do vậy hình thành thái độ, những cách xử sự khác nhau, có thể là tích cực và cũng có thể là tiêu cực. Nếu chủ thể nhận thức được sự cần thiết của pháp luật, của quá trình điều chỉnh pháp luật thì họ sẽ tự giác, tin tưởng và phấn khởi thực hiện những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Ngược lại, chủ thể có thể vẫn chấp hành pháp luật song chỉ là sự miễn cưỡng, hoặc do sợ hãi sự trừng phạt mà phải chấp hành. Thực tế cũng cho thấy có những chủ thể có hiểu biết pháp luật cao nhưng do không có tình cảm đúng đắn, xem thường pháp luật nên vẫn cố tình vi phạm pháp luật.
Thái độ, tình cảm pháp luật của một con người bao giờ cũng là sự biểu hiện và là thước đo lòng tin vào pháp luật của người đó. Sự hình thành lòng tin vào pháp luật ở con người không đơn giản chỉ bằng việc cung cấp ngày càng đầy đủ những tri thức pháp lý, càng không thể bằng các biện pháp răn đe, cưỡng chế, tuyệt đối hóa quyền lực. Nó đòi hỏi GDPL phải bằng những
nội dung, hình thức, phương pháp linh hoạt, mềm dẻo để đem lại cho đối tượng giáo dục các phẩm chất:
- Tình cảm về sự công bằng và biết đối xử với người khác theo các tiêu chuẩn của pháp luật;
- Tình cảm về trách nhiệm, tức là làm cho con người được giáo dục ý thức sâu sắc về nghĩa vụ pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh, chính xác những mệnh lệnh pháp luật, hoàn thành không điều kiện những nghĩa vụ về pháp lý trong các quan hệ pháp luật mà mình tham gia;
- Tình cảm đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện vi phạm pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 1
- Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 2
- Nhận Thức Chung Về Học Viên Và Những Đặc Điểm Cơ Bản Của Học Viên Đào Tạo Sĩ Quan Tại Các Trường Sĩ Quan Quân Đội Ở Việt Nam Hiện Nay
- Vai Trò Và Ý Nghĩa Của Việc Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Viên Các Trường Sqqđ
- Thực Trạng Nhận Thức Về Vị Trí, Vai Trò Và Ý Nghĩa Của Giáo Dục Pháp
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Ba là, mục đích hành vi - nhằm hình thành động cơ, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực đối với GDPL.
Trong các mục đích của GDPL, mục đích hành vi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi kết quả cuối cùng của GDPL phải được thể hiện ở hành vi xử sự theo pháp luật của con người.
Mục đích hành vi đòi hỏi GDPL trước hết phải hình thành ở đối tượng giáo dục động cơ hành vi hợp pháp, tức là hình thành động lực bên trong thúc đẩy con người hành động tuân theo các đòi hỏi của pháp luật. Việc cung cấp tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện những mệnh lệnh của pháp luật là những yếu tố rất quan trọng nhằm hình thành động cơ hành vi hợp pháp. Tuy nhiên, động cơ hành vi hợp pháp chỉ là lực thúc đẩy bên trong của hành vi hợp pháp, còn hành vi hợp pháp diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào kỹ năng, thói quen xử sự hợp pháp. Những tình cảm công bằng, ý thức trách nhiệm và thái độ không khoan dung đối với các vi phạm pháp luật là những yếu tố tâm lý, tư tưởng có tác động quan trọng làm cho hành vi hợp pháp trở thành thói quen xử sự hợp pháp của con người. Thói quen xử sự hợp pháp ở đây được hiểu là cách xử sự
được thực hiện đúng với pháp luật một cách dễ dàng, tự nhiên không cần phải suy nghĩ, cân nhắc có sự đấu tranh về động cơ. Thói quen đó được hình thành là do sự lặp đi lặp lại nhiều lần một suy nghĩ, một hành động hợp pháp nào đó trong cuộc sống. Như thế, sự hình thành thói quen xử sự hành vi hợp pháp chỉ có thể là biện pháp của sự tác động GDPL một cách thường xuyên, liên tục, kiên trì và lâu dài.
Tóm lại: GDPL có ba mục đích cụ thể, gồm mục đích tri thức, mục đích cảm xúc và mục đích hành vi. Giữa các mục đích đó có mối quan hệ mật thiết và quy định lẫn nhau. Vì vậy, khi tiến hành GDPL phải cân nhắc, tính toán đến từng mục đích để có các hình thức và phương pháp GDPL cho phù hợp.
1.1.1.3. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật
Về nội dung giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục nói chung được hiểu là hệ thống giáo dục tri thức của nền văn minh nhân loại được chọn lọc phù hợp với mục đích giáo dục. Đối với GDPL, nội dung là sự cụ thể hóa mục đích GDPL, được xác định trên cơ sở mục đích của GDPL, bao gồm một hệ thống các thông tin về pháp luật, như thông tin về pháp luật thực định, thông tin về thực tiễn pháp luật, thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể và thông tin pháp luật chuyên ngành. Đây chính là một hệ thống những tri thức cần thiết cho đối tượng giáo dục sử dụng để phân tích, lý giải một cách khoa học những vấn đề thực tế mà họ hay gặp, từ đó định hướng cho hành vi của mình. Việc lựa chọn nội dung GDPL, nhất là nội dung cho đối tượng cụ thể cần căn cứ vào các đặc điểm sau:
- Căn cứ vào trạng thái động của các thông tin cơ bản trong nội dung GDPL. Đặc điểm này do sự thiếu ổn định của chính hệ thống pháp luật thực định, và do chính ngay sự thiếu ổn định của những cơ sở hình thành hệ thống đó dưới tác động của các biến đổi xã hội và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định điều này đòi hỏi chủ thể
giáo dục phải thiết kế được nội dung, tổng thể sao cho phù hợp, vừa có phần chung (tương đối ổn định) vừa có phần riêng (các nội dung mới, bổ sung, sửa đổi), để đảm bảo cả hai yêu cầu của GDPL là tính hệ thống, khoa học và tính cập nhật.
- Đặc điểm thứ hai là khả năng tồn tại sự mâu thuẫn chồng chéo trong bản thân pháp luật, giữa pháp luật trên văn bản và thực tiễn, từ đó dẫn đến sự mâu thuẫn giữa các thông tin về pháp luật, và do đó dẫn đến những tác động lên đối tượng giáo dục trái ngược nhau. Vì thế, đặc điểm này đòi hỏi các chủ thể GDPL phải lựa chọn nội dung giáo dục sao cho đối tượng giáo dục có cách nhìn nhận đúng đắn, biện chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống, tự lý giải được những vướng mắc để có hành vi tích cực trong hoạt động, công tác của mình cũng như đóng góp vào sự phát triển khoa học pháp lý.
Về hình thức giáo dục pháp luật
Bất kỳ hoạt động nào cũng được diễn ra thông qua các hình thức cụ thể. Trong giáo dục học, hình thức giáo dục được quan niệm là toàn bộ các dạng hoạt động cụ thể giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm thực hiện nội dung và mục đích giáo dục. Đặc trưng của hình thức giáo dục chính là mặt tổ chức sắp xếp, tiến hành các hoạt động giáo dục của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Trên cơ sở quan niệm chung này hình thức giáo dục được xác định “là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật, qua đó thể hiện được nội dung, mục tiêu của giáo dục pháp luật” [13,tr.75]. Như thế, hình thức GDPL nói lên tính tổ chức, sự phối hợp hoạt động giữa chủ thể GDPL với đối tượng GDPL được quy định bởi nội dung GDPL.
Cũng như nội dung GDPL, hình thức GDPL rất đa dạng, phong phú, luôn được hoàn thiện, phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy có các hình thức GDPL sau:
- Nhóm các hình thức có tính phổ biến và truyền thống được sử dụng trong nhiều loại hình giáo dục, trong đó có GDPL bao gồm:
1. Việc dạy và học pháp luật trong các nhà trường. Đây là hình thức tổ chức phối hợp hoạt động giáo dục trực tiếp giữa chủ thể chuyên nghiệp là giáo viên giảng dạy pháp luật và đối tượng là học viên trong khuôn khổ nhà trường;
2. Giáo dục truyền thông phổ cập, do nhiều loại chủ thể chuyên và không chuyên tiến hành với các nhóm đối tượng khác nhau. Các hình thức này rất đa dạng phong phú và được vận dụng một cách linh hoạt tùy theo điều kiện, tính chất, đối tượng GDPL, như GDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, tác phẩm văn học nghệ thuật, sinh hoạt truyền thống, thi tìm hiểu pháp luật, …
- Nhóm các hình thức GDPL đặc thù. Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa tác động của GDPL và tác động của thực tiễn pháp luật lên ý thức và hành vi của công dân có thể phân nhóm này thành các hình thức sau:
1. Hình thức GDPL trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ quan nhà nước;
2. Hình thức GDPL qua các hoạt động của tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức nghề nghiệp pháp luật.
Trong các hình thức trên, hình thức giáo dục thông qua hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp chủ yếu là do cán bộ công chức nhà nước thực hiện, gắn liền với nhiệm vụ chuyên môn của họ. Đó là hình thức GDPL sinh động, có tác động mạnh mẽ lên ý thức, tình cảm và hành vi của người được giáo dục. Bởi vì, GDPL thông qua các hoạt động này thường mang tính cá thể rõ rệt cả về nội dung, đối tượng và phương pháp giáo dục, gắn liền với việc áp dụng với điều luật cụ thể hay thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tượng GDPL . Có thể khẳng đi ̣nh, việc ghi nhận và tiến hành các hình thức GDPL đặc thù đã góp phần tạo nên sự đổi mới trên lĩnh vực GDPL, đặc biệt
15
là trong tổ chức thực tiễn giáo dục, trong việc xác định trách nhiệm giáo dục của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, và do huy động được các nguồn lực cho việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng GDPL trên phạm vi toàn xã hội.
1.1.2. Khái niệm và những đặc thù của giáo dục pháp luật cho học viên các trường sỹ quan quân đội nhân dân Viêṭ Nam
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho học viên các trường đào tạo sĩ quan quân đội
Đào tạo đội ngũ SQQĐ nhân dân Việt Nam là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, luôn được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Ngay từ khi ra quyết định thành lập QĐND Việt Nam ngày 22 tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm mở các lớp huấn luyện cho chỉ huy, chiến sỹ quân đội. Khi cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã ký sắc lệnh số 44/SL ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc thành lập Hội đồng cố vấn học chính. Trong các sắc lệnh về tổ chức Bộ Quốc phòng, sắc lệnh số 47/SL ngày 01 tháng 05 năm 1947 về tổ chức Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị, Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy đã thành lập Cục Quân huấn - là cơ quan lo việc đào tạo cán bộ, chiến sỹ của Quân đội.
Trong toàn bộ quá trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, các nhà trường quân đội ngày càng phát triển, lớn mạnh, đóng góp to lớn vào việc đào tạo đội ngũ sỹ quan tài ba, thao lược, có phẩm chất chính trị vững vàng, thực sự là lực lượng nòng cốt quyết định những chiến thắng vẻ vang của quân đội, của nhân dân Việt Nam. Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, và nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới, các nhà trường quân đội đã trở thành hệ thống đào tạo ngày càng hoàn chỉnh, với nội dung đào tạo phong phú, trong đó có nội dung GDPL.
GDPL cho học viên các trường SQQĐ được hiểu là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của các chủ thể GDPL, nhằm cung cấp cho
16
học viên hệ thống tri thức pháp luật, đồng thời bồi dưỡng tình cảm và thói quen tuân thủ pháp luật ở học viên.
1.1.2.2. Những đăc thù của giáo dục pháp luật cho học viên trong các
nhà trường sĩ quan quân đội
Hoạt động giáo dục đào tạo nói chung và GDPL nói riêng trong các nhà trường SQQĐ có những điểm đặc thù mà việc nghiên cứu, làm rõ có ý nghĩa rất lớn trong việc đổi mới , nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục . Trong phạm vi khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ , tác giả đi vào phân tích một số đặc thù sau:
- Đặc thù về tổ chức quản lý
Các nhà trường SQQĐ là một bộ phận trong hệ thống các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý về mọi mặt, được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận đào tạo bậc đại học, sau đại học. Hiện nay các trường SQQĐ bao gồm: Trường sỹ quan Lục quân I; Trường sỹ quan Lục quân II; Trường sỹ quan Pháo binh; Trường sỹ quan Đặc công; Trường sỹ quan Tăng thiết giá;pTrường sỹ quan Công binh; Trường sỹ quan Thông tin; Trường sỹ quan Phòng hóa; Trường sỹ quan Kỹ thuâṭ quân sự vàTrường sĩ quan Chính trị.
Việc tổ chức hệ thống quản lý, việc chỉ đạo công tác trong các nhà
trường đều được đặt dưới sự chỉ đạo chung của Bộ Quốc phòng, có nghĩa là dưới sự lãnh đạo của Quân ủy trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thường xuyên và trực tiếp là Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Việc chỉ đạo, quản lý từng trường, từng mặt công tác nhà trường được thực hiện theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy cùng cấp. Các cơ quan công tác nhà trường SQQĐ gồm có: Cục Nhà trường thuộc Bộ Tổng tham mưu; Phòng Giáo dục lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn trong Cục Tuyên huấn , thuộc Tổng cục Chính trị; Phòng Quân huấn - Nhà trường thuộc các Binh chủng, Tổng cuc̣ .
Về cơ cấu tổ chức, các trường SQQĐ nói chung có mô hình sau : Ban giám hiệu; Hội đồng khoa học; các cơ quan giúp việc; các khoa hoặc bộ môn, đội ngũ giáo viên; các phân đội phục vụ; các đơn vị học viên.
Đơn vị học viên là phân đội quản lý và rèn luyện học viên về mọi mặt, được tổ chức tùy theo tính chất, đặc điểm của từng trường. Đối với các học viên có chuyên ngành chỉ huy, tham mưu thì đơn vị học viên được tổ chức thành hệ, lớp; hoặc tổ chức đơn vị học viên thành tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội. Đơn vị học viên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của hiệu trưởng và người chỉ huy đơn vị học viên. Người chỉ huy đơn vị học viên được biên chế từ cấp trung đội hoặc lớp trưởng, đến cấp tiểu đoàn hoặc hệ. Cấp phó trung đội trưởng trung đội học viên do học viên đảm nhiệm theo sự chỉ định của người chỉ huy đơn vị học viên.
Từ mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động trên cho thấy các nhà trường SQQĐ được tổ chức theo phương thức quản lý hành chính quân sự, kết hợp với quản lý chất lượng giáo dục. Phương thức quản lý này phù hợp với yêu cầu hoạt động quân sự, làm cho quá trình giáo dục được khép kín từ khâu trang bị kiến thức đến khâu tổ chức cuộc sống. Cách tổ chức ở mỗi trường SQQĐ tuy có khác nhau nhưng việc ăn, ở của học viên đều theo chế độ tập trung, quản lý theo Điều lệnh, Điều lê ̣quân đội, với hệ thống chỉ huy quân sự, hệ thống đảng, đoàn hết sức chặt chẽ. Từ đây, việc học tập, rèn luyện của học viên được đảm bảo chất lượng cả về tri thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, tư tưởng. Cách tổ chức quản lý hành chính - quân sự trong đó đã có tác động mạnh mẽ lên quá trình giáo dục, trong đó có GDPL như sau:
Một là, có sự tổ chức, quản lý chặt chẽ, do đó nắm bắt và uốn nắn được kịp thời những lệch lạc về tư tưởng và hành động trong học viên. Đây là điều làm cho các trường SQQĐ, trực tiếp là tập thể học viên ít bị những tác động