Nhân tố này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển tổ chức sản xuất kinh doanh khi xây dựng nền sản xuất lớn trong công nghiệp. Nó đòi hỏi tất cả các sản phẩm do mỗi doanh nghiệp sản xuất và đưa ra thị trường phải theo tiêu chuẩn thống nhất. Tiêu chuẩn này không chỉ là cơ sở giúp Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp mà còn là cơ sở để tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các doanh nghiệp có liên quan.
e. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành công nghiệp chuyên môn hóa
Mỗi ngành công nghiệp chuyên môn hóa có những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng chi phối việc lựa chọn trình độ chuyên môn hóa sản phẩm. Chẳng hạn, sản phẩm ngành cơ khí thường có kết cấu phức tạp, được cấu thành bởi nhiều bộ phận nên ở đây áp dụng khá phổ biến hình thức chuyên môn hóa theo bộ phận, chi tiết và hiệp tác hóa sản xuất cũng rất phát triển đối với ngành này. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may thường thuộc loại hình sản xuất hàng loạt, công nghệ sản xuất các sản phẩm này tương đối đồng nhất, nên thường áp dụng chuyên môn hóa theo giai đoạn công nghệ.
3.1.3.3. Phương hướng kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa kinh doanh
Trong điều kiện kinh tế thị trường, quyền chủ động và tính tự chủ thuộc về bản thân doanh nghiệp. Để thích ứng với môi trường kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã điều chỉnh kịp thời phương hướng kinh doanh của mình, kết hợp giữa hoàn thiện chuyên môn hóa với mở rộng đa dạng hóa kinh doanh trong mục tiêu dài hạn cũng như ngắn hạn.
Trong quản trị doanh nghiệp, người ta ngày càng nhận thức rò hơn vai trò của việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp
- được cấu thành từ nhiều chiến lược bộ phận khác nhau. Sự kết hợp các chiến lược bộ phận xét trên góc độ tổ chức kinh doanh chính là sự kết hợp phát triển chuyên môn hóa và mở rộng hợp lý đa dạng hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Trong dài hạn, sự kết hợp ấy làm thay đổi cơ cấu kinh doanh của doanh nghiệp theo những hướng khác nhau tùy thuộc vào sự biến đổi của môi trường kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp là một phần tử cấu thành hệ thống kinh tế thống nhất, sự vận động của nó phải trong khuôn khổ hành lang pháp lý của mỗi quốc gia. Khi nghiên cứu xác định phương hướng, nội dung chuyên môn hóa và đa dạng hóa cần phải quan tâm đến định hướng phát triển và hệ thống pháp lý của mỗi quốc gia.
Chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, trong đó chiến lược phát triển sản phẩm được coi là cốt lòi. Có nhiều mô hình chiến lược sản phẩm như:
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Của Các Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Trong Công Nghiệp
- Nghiên Cứu, Phát Triển Và Triển Khai Ứng Dụng Các Thành Tựu Khoa Học Công Nghệ Trong Phát Triển Công Nghiệp Với Đảm Bảo Môi Trường Sinh Thái Bền
- Chuyên Môn Hóa Sản Xuất Và Đa Dạng Hóa Kinh Doanh Trong Công Nghiệp
- Thực Chất, Vai Trò Và Các Cách Phân Loại Hoạt Động Liên Kết Kinh Tế Trong Công Nghiệp
- Nội Dung Cần Quan Tâm Trong Hoạt Động Liên Kết Kinh Tế
- Đường Cầu Của Thị Trường Và Doanh Nghiệp Độc Quyền
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
- Chiến lược chuyên môn hóa;
- Chiến lược bành trướng;
- Chiến lược đa dạng hóa;
- Chiến lược rút lui…
Trong thực tế, mô hình chiến lược mà các doanh nghiệp áp dụng không tách biệt nhau mà thường đặt trong sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp các mô hình chiến lược ấy xét trên góc độ tổ chức sản xuất chính là sự kết hợp phát triển chuyên môn hóa và mở rộng hợp lý đa dạng hóa sản phẩm của doanh nghiệp. Sự kết hợp ấy trong dài hạn sẽ làm thay đổi cơ cơ sản phẩm của doanh nghiệp theo hướng khác nhau theo sự biến đổi của môi trường kinh doanh: loại bỏ những sản phẩm lỗi thời không sinh lợi, bổ sung những sản phẩm mới, điều chỉnh lượng sản xuất của các loại sản phẩm, cải tiến sản phẩm đang sản xuất.
3.2. TẬP TRUNG HÓA VÀ ĐO LƯỜNG QUY MÔ CỦA DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
3.2.1. Thực chất và các hình thức tập trung hóa sản xuất
3.2.1.1. Tập trung hóa sản xuất
Tập trung hóa sản xuất trong công nghiệp là quá trình tập hợp các hoạt động công nghiệp vào các loại hình tổ chức kinh doanh có quy mô ngày càng lớn.
Sự phát triển của tập trung hóa sản xuất gắn liền với quá trình phát triển công nghiệp, tiến bộ khoa học công nghệ và xã hội hóa sản xuất. Nội dung cơ bản của quá trình này là sự tập trung về tư liệu sản xuất và lao động vào một tổ chức kinh doanh công nghiệp nhất định. Nói chung, khi thực hiện đổi mới công nghệ trong quá trình tập trung hóa, tốc độ tăng của các yếu tố vật chất và tài chính sẽ lớn hơn tốc độ tăng của lao động. Việc tăng các yếu tố đó qua thực hiện tập trung hóa sản xuất chính là nhằm tăng lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhờ thúc đẩy phân công lao động, tổ chức tốt quan hệ hiệp tác sản xuất và ứng dụng những thành tựu mới của tiến bộ khoa học – công nghệ.
Giữa tập trung hóa sản xuất và quy mô tổ chức kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trình độ cao của tập trung hóa sản xuất dẫn tới việc hình thành các loại hình tổ chức kinh doanh có quy mô lớn và thế lực lớn trên thị trường. Việc mở rộng quy mô tổ chức kinh doanh không phải là mục tiêu của quá trình tập trung hóa mà chỉ là hệ quả tất yếu của quá trình này. Nói cách khác, quy mô của tổ chức kinh doanh chỉ là một trong những hình thức biểu hiện của tập trung hóa sản xuất.
Quá trình phát triển của tập trung hóa sản xuất gắn liền với sự xuất hiện của nhiều loại hình tổ chức kinh doanh với những tính chất hoạt động rất khác nhau. Hình thức phường, hội tập hợp những người thợ thủ công có thể thích ứng với trình độ phát triển thấp của công nghiệp. Sự phát triển công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện một loạt những loại hình tổ chức kinh doanh như Carten, xanhcadi, cong sooc xi
om, conglomerat,… Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, đã phát triển mạnh mẽ các tập đoàn kinh tế mang tính quốc tế dưới tên gọi các công ty đa quốc gia.
Để đánh giá trình độ tập trung hóa sản xuất, người ta thường xác định tỷ trọng sản lượng sản phẩm (lao động, giá trị tài sản cố định) của các doanh nghiệp quy mô lớn trong các chỉ tiêu tương ứng của ngành công nghiệp chuyên môn hóa hẹp. Do ảnh hưởng của trình độ công nghệ của các doanh nghiệp không đồng nhất nên tỷ trọng tính theo các chỉ tiêu trên không phải luôn tương đương nhau.
Tập trung hóa sản xuất trong công nghiệp được thực hiện bằng nhiều con đường:
- Các tổ chức kinh doanh với quy mô khác nhau tự nguyện liên doanh, liên kết với nhau để hình thành một tổ chức kinh doanh mới với quy mô lớn hơn.
- Các tổ chức kinh doanh có quy mô lớn, thế lực mạnh thôn tính các doanh nghiệp kém sức cạnh tranh.
- Xây dựng mới các tổ chức kinh doanh với quy mô lớn.
3.2.1.2. Các hình thức tập trung hóa sản xuất
Trong công nghiệp có nhiều cách phân loại các hình thức tập trung hóa sản xuất. Các cách phân loại ấy khác nhau về căn cứ, nội dung và tác dụng. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
a. Xét theo tính chất của các loại sản xuất được tập trung
- Tập trung hóa sản xuất theo chiều dọc: tập trung các loại sản xuất khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một quá trình thống nhất. Việc thực hiện tập trung hóa sản xuất này chính là cách thức thống nhất lại quá trình sản xuất xã hội đã bị chia cắt bởi sự phát triển của phân công lao động. Việc thực hiện tập trung hóa sản xuất theo chiều dọc không chỉ liên quan đến hoạt động của công nghiệp mà còn liên quan đến một số loại hoạt động ngoài sản xuất công nghiệp nữa (Ví dụ: hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất nguyên liệu và hoạt động công nghiệp chế biến nguyên liệu ấy). Việc hình thành loại hình tổ chức kinh doanh thích hợp, trong đó có các loại hoạt động khác nhau tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức mối liên hệ sản xuất.
- Tập trung hóa sản xuất theo chiều ngang: tập trung các loại hoạt động có cùng tính chất. Việc tập trung hóa sản xuất này có ý nghĩa to lớn nhờ việc thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn hóa sản xuất, nhờ tổ chức tốt quan hệ phân công sản xuất. Chẳng hạn, việc tập trung các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp cơ khí vào một tổ chức thống nhất sẽ là điều kiện quan trọng để tổ chức lại sự phân công sản xuất giữa chúng, khắc phục tình trạng sản xuất trùng lắp, kém hiệu quả.
b. Xét theo sự thay đổi trình độ trang bị công nghệ
- Tập trung hóa sản xuất theo chiều rộng: được thực hiện khi trình độ công nghệ sản xuất không có sự thay đổi đáng kể. Việc tăng lượng sản phẩm do tổ chức kinh doanh sản xuất là kết quả của việc tăng tương ứng các yếu tố sản xuất. Về cơ bản, việc
tăng sản lượng, tăng các yếu tố vật chất và tăng các yếu tố lao động gần như tỷ lệ thuận với nhau. Việc thực hiện tập trung hóa sản xuất này không tốn kém về chi phí tài chính nhưng không đáp ứng được yêu cầu của tiến bộ khoa học – công nghệ và hạn chế khả năng cạnh tranh của tổ chức kinh doanh.
- Tập trung hóa sản xuất theo chiều sâu: được thực hiện gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ sản xuất. Nhờ đó, năng suất lao động được nâng cao, sản lượng sản phẩm tăng lên chính là nhờ kết quả tích cực này. Xét về mặt lượng, tốc độ tăng lên của sản lượng, của các yếu tố vật chất và của lao động không tương đương nhau. Tốc độ tăng của lao động thấp hơn tốc độ tăng của vốn đầu tư và của sản lượng. Hình thức tập trung hóa sản xuất này đáp ứng được yêu cầu phát triển của tiến bộ khoa học công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh nhưng gặp hạn chế khi muốn tăng thêm chỗ làm việc và năng lực tài chính của chủ đầu tư có giới hạn.
c. Xét theo sự thay đổi tính chất của doanh nghiệp tham gia vào quá trình tập trung
- Tập trung hóa có sát nhập: các chủ thế kinh tế tham gia vào quá trình tập trung hóa hình thành một chủ thể kinh doanh mới, do đó mất đi tính độc lập ban đầu, trở thành một chủ thể (pháp nhân) mới. Loại hình tập trung hóa sản xuất này bảo đảm tính tập trung cao và chặt chẽ về quản lý, tổ chức kinh doanh song không có độ hấp dẫn cao so với các chủ thể kinh tế độc lập. Bởi vậy, thông thường phải dùng các biện pháp tổ chức hoặc kinh tế để thực hiện hình thức tập trung hóa này. Ví dụ: một doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế sử dụng các sức ép kinh tế để sát nhập các doanh nghiệp khác, biến chúng thành bộ phận phụ thuộc.
- Tập trung hóa không có sát nhập (còn gọi là tập trung quản lý): các chủ thể tham gia quá trình tập trung hóa vẫn giữ nguyên tính độc lập kinh doanh nhưng một số chức năng quản lý được thực hiện tập trung. Chẳng hạn, đó là sự phối hợp hành động trên thị trường, phân công sản xuất, xác định và thực hiện chiến lược đầu tư,…
Các hình thức tập trung hóa sản xuất trong công nghiệp có sự đan xen nhau. Trên thực tế, hình thức phổ biến nhất là tập trung hóa hỗn hợp, trong đó ngoài một hình thức tập trung hóa chủ đạo còn có những hình thức khác được kết hợp vào. Chẳng hạn, trong công nghiệp dệt – may, ngoài hình thức kết hợp các doanh nghiệp theo quá trình công nghệ chế biến nguyên liệu (tập trung hóa theo chiều dọc), còn có sự kết hợp các doanh nghiệp có cùng tính chất ngành nghề (tập trung hóa theo chiều ngang).
Tập đoàn kinh tế là một hình thức tiêu biểu của tập trung hóa sản xuất và đang ngày càng phát triển trên thế giới. Đó là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp có vị trí kinh tế độc lập, chọn một doanh nghiệp cốt cán làm nòng cốt, giữa các doanh nghiệp đó có mối liên kết kinh tế, kỹ thuật nhất định, cùng nhau thực hiện một liên hợp kinh tế có quy mô lớn.
Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển.
3.2.2. Quy mô và các chỉ tiêu đo lường quy mô doanh nghiệp
3.2.2.1. Quy mô doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp là phạm trù phản ánh độ lớn của doanh nghiệp và cách thức tổ chức, bố trí các bộ phận cấu thành doanh nghiệp ấy.
Xác định quy mô hợp lý của doanh nghiệp là một công việc quan trọng trong quá trình đầu tư xây dựng doanh nghiệp mới hoặc sắp xếp lại các doanh nghiệp đang tồn tại. Bởi vậy, có thể coi xác định quy mô doanh nghiệp là một nội dung của công tác tổ chức hệ thống công nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp được phản ánh trên hai mặt:
- Về mặt lượng: để đánh giá và so sánh quy mô của doanh nghiệp, người ta sử dụng những chỉ tiêu định lượng cụ thể. Độ lớn của doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp vào trình độ tích tụ, tập trung hóa sản xuất. Trình độ tích tụ, tập trung hóa sản xuất càng cao, quy mô của doanh nghiệp càng lớn. Nhưng điều đó không thể phủ nhận sự tồn tại của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Bởi lẽ, trình độ tích tụ, tập trung của các ngành không đồng nhất như nhau, khả năng kinh doanh của các chủ đầu tư cũng không giống nhau.
- Về mặt chất: quy mô của doanh nghiệp không phải là sự tập hợp giản đơn các bộ phận cấu thành doanh nghiệp mà đòi hỏi có cách thức tổ chức, sắp xếp các bộ phận ấy phù hợp với yêu cầu thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Cách thức tổ chức, sắp xếp các bộ phận trong doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau: độ lớn của doanh nghiệp, đặc điểm lĩnh vực kinh doanh, các quan hệ liên kết kinh tế mà doanh nghiệp tham gia…
3.2.2.2 Các chỉ tiêu đo lường quy mô doanh nghiệp
Để phản ánh và so sánh quy mô doanh nghiệp, người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
- Sản lượng sản phẩm (tính bằng giá trị hoặc hiện vật);
- Số lượng lao động;
- Giá trị tài sản cố định.
Khi sử dụng các chỉ tiêu đo lường quy mô doanh nghiệp vào các mục tiêu trên, cần chú ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, các chỉ tiêu này được xem xét cho từng ngành công nghiệp chuyên môn hóa, không có chỉ tiêu chung để đo lường quy mô doanh nghiệp cho tất cả các ngành, vì các ngành công nghiệp chuyên môn hóa có đặc điểm kinh tế - kỹ thuật khác nhau.
Thứ hai, việc sử dụng các chỉ tiêu đo lường quy mô các doanh nghiệp phải luôn tính đến trình độ trang bị công nghệ của chúng. Khi trình độ trang bị công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành ngang nhau thì có thể sử dụng bất cứ chỉ tiêu nào trong các chỉ tiêu trên. Song điều đó lại không phổ biến trong thực tế khi các doanh nghiệp có trình độ trang bị công nghệ khác nhau, giá trị tài sản cố định, năng suất lao động, số lượng lao động của chúng rất khác nhau. Bởi vậy, chỉ nên sử dụng chỉ tiêu sản lượng sản phẩm hoặc giá trị tài sản (đã quy đổi) chứ không nên sử dụng chỉ tiêu số lượng lao động để so sánh quy mô các doanh nghiệp.
Khi phân tích trình độ tập trung hóa sản xuất của một ngành công nghiệp, không tính đến doanh nghiệp sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng, quy mô hợp lý của doanh nghiệp phải là quy mô đảm bảo khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Bởi vậy, quy mô hợp lý của doanh nghiệp không nhất thiết phải là quy mô lớn. Việc lựa chọn quy mô hợp lý của doanh nghiệp được coi là một công việc có tầm quan trọng đặc biệt vì:
- Nó quy định trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cơ bản
- Ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và qua đó, ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh.
- Chi phối tiềm lực kinh tế của đất nước…
Để lựa chọn quy mô hợp lý của doanh nghiệp đòi hỏi phải đưa ra nhiều phương án khác nhau. Thông qua việc so sánh giữa các phương án ấy, có thể lựa chọn phương án hợp lý nhất. Trong hệ thống các chỉ tiêu đưa ra so sánh, người ta thường sử dụng chỉ tiêu chi phí thực hiện cho đơn vị sản phẩm.
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Ci = Zi + Eđm*vi
Trong đó: Zi: giá thành đơn vị của phương án thứ i Vi: Suất đầu tư của phương án thứ i Eđm: hệ số hiệu quả định mức
Chỉ tiêu trên đây được tính toán cho từng phương án, sau đó só sánh kết quả tính toán với nhau và lựa chọn phương án có chi phí thực hiện tính cho một đơn vị sản phẩm là nhỏ nhất.
3.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô doanh nghiệp
a. Quan hệ cung – cầu trên thị trường
Trong điều kiện cơ chế thị trường, với tư cách là một chủ thể, mỗi doanh nghiệp phải quán triệt phương châm “sản xuất và đưa ra thị trường những hàng hóa mà thị trường cần”. Quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường chi phối trực tiếp toàn bộ công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và việc xác định quy mô doanh nghiệp nói riêng.
Khi cung nhỏ hơn cầu, trên thị trường xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa. Điều đó tạo nên cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư do việc mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện có hay việc xây dựng doanh nghiệp mới với quy mô thích hợp không gặp phải những rủi ro lớn trong kinh doanh. Ngược lại, khi cung cầu cân bằng hoặc khi cung lớn hơn cầu đòi hỏi phải có phương án thu hẹp kinh doanh hoặc chuẩn bị điều kiện để chuyển hóa sang lĩnh vực sản phẩm thị trường khác.
Dù trong trường hợp nào, các doanh nghiệp cũng cần chú ý không chỉ xét đến tổng lượng cung và tổng lượng cầu mà còn tính đến cả cơ cấu nhu cầu, thị hiếu và điều kiện sử dụng của những đối tượng tiêu dùng khác nhau. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần phải áp dụng tổng hợp các biện pháp kích thích tăng cầu hàng hóa, như: cải tiến sản phẩm, hạ giá bán, tăng cường công tác quảng cáo, đa dạng hóa phương thức bán hàng… Khi cầu hàng hóa càng lớn, việc mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp càng thuận lợi.
Trong việc xác định quy mô doanh nghiệp, qua việc xác định lượng sản xuất cũng cần xem xét lượng sản phẩm mà thị trường có nhu cầu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của nó. Khi sản phẩm đang ở giai đoạn suy thoái, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu rời bỏ thị trường mà doanh nghiệp lại vẫn tiếp tục đầu tư để tăng lượng sản xuất thì có thể gặp rủi ro lớn trong kinh doanh.
b. Khả năng đảm bảo các yếu tố đầu vào
Nhu cầu hàng hóa mới chỉ tạo thành điều kiện cần để xác định quy mô doanh nghiệp. Điều kiện đủ là khả năng đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp chế tạo sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu ấy.
Trước hết, đó là khả năng của chủ đầu tư, thể hiện tập trung ở khả năng tài chính. Nghĩa là mức độ nguồn lực tài chính tự có của từng chủ đầu tư và khả năng huy động các nguồn tài chính khác để tạo lập doanh nghiệp mới, hoặc mở rộng doanh nghiệp hiện có với quy mô thích hợp. Khi đảm bảo được yếu tố tài chính, các chủ đầu tư có thể tìm mua các yếu tố vật chất cần thiết trên các thị trường thích ứng. Khả năng tài chính càng cao, khả năng mở rộng quy mô doanh nghiệp càng lớn. Từ đó có thể thấy rằng, việc tập trung tư bản (vốn) có ý nghĩa to lớn đối với tập trung sản xuất và mở rộng quy mô doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không thể tuyệt đối hóa khả năng của từng chủ đầu tư cá biệt bởi chủ đầu tư có thể tìm mua được các yếu tố cần thiết cho mình hay không còn phụ thuộc vào thị trường có những hàng hóa mà doanh nghiệp cần hay không. Xem xét một cách cụ thể hơn, việc đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong nước (sự phát triển của các ngành sản xuất tư liệu lao động, đối tượng lao động…) và quan hệ thương mại quốc tế (nhập khẩu các yếu tố trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đủ).
c. Tiến bộ khoa học công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp có trình độ khoa học công nghệ càng cao, khả năng cạnh tranh càng lớn và ngược lại.
Trình độ khoa học công nghệ cũng ảnh hưởng lớn đến quy mô doanh nghiệp do trình độ khoa học công nghệ cao có khả năng tạo ra khối lượng sản phẩm lớn và đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn tạo ra tài sản cố định có giá trị cao của doanh nghiệp, do đó thường dẫn tới hình thành doanh nghiệp có quy mô lớn.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế cao mà doanh nghiệp có khả năng đạt được không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ công nghệ hiện đại nhất mà còn phụ thuộc vào trình độ công nghệ thích ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, khi lựa chọn quy mô doanh nghiệp không thể tách rời việc lựa chọn công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc lựa chọn quy mô hợp lý của doanh nghiệp chịu sự ràng buộc của những yêu cầu rất phức tạp: một mặt, doanh nghiệp phải có khả năng vươn tới trình độ công nghệ cao; mặt khác, phải phù hợp với khả năng về vốn đầu tư còn hạn hẹp và có thể cần tạo thêm được nhiều việc làm. Những yêu cầu ấy không phải là luôn đồng hướng mà lại thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Có 3 con đường giải quyết quan hệ giữa trình độ công nghệ, yêu cầu vốn đầu tư và khả năng thu hút thêm lao động:
- Trình độ công nghệ sau khi mở rộng quy mô doanh nghiệp không đổi, để tăng thêm sản lượng cần tăng thêm vốn đầu tư và lao động với tỷ lệ tương ứng nhau.
- Trình độ công nghệ sau khi mở rộng quy mô doanh nghiệp được nâng cao, nhu cầu vốn đầu tư lớn trong khi khả năng thu hút thêm lao động lại hạn chế.
- Trình độ công nghệ sau khi mở rộng quy mô doanh nghiệp thấp hơn trước, nhu cầu vốn đầu tư nhỏ và khả năng thu hút thêm lao động lại cao.
d. Trình độ chuyên môn hóa và các quan hệ liên kết kinh tế
Nhân tố này ràng buộc đến việc xác định phương án quy mô doanh nghiệp ở chỗ: nếu áp dụng hình thức chuyên môn hóa thích hợp và mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế thì quy mô từng doanh nghiệp cá biệt không cần mở rộng nhưng vẫn tăng được tổng khối lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường.
Hiện nay đang diễn ra xu hướng mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung hóa sản xuất thông qua việc hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn. Trong thành phần các tập đoàn kinh doanh lớn này có các doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập có trình độ chuyên môn hóa sản xuất cao. Như vậy, tuy tập đoàn kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng mỗi doanh nghiệp thành viên có thể có quy mô không lớn nhưng trình độ chuyên môn hóa cao, góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của tập đoàn trên thị trường.