Sơ Đồ Số Csts Về Tỷ Lệ Khám Thai Ở Một Số Quốc Gia


Tại Lào, mặc dù mặt bằng chung sức khỏe của nhân dân có xu hướng tốt (năm 2000 tuổi thọ trung bình của Lào tăng lên đến 59 tuổi: nữ 61 và nam 57), nhưng tử vong của bà mẹ và trẻ em vẫn cao so với các nước khác trong khu vực. Với tỷ lệ sinh ở Lào là 5,6/1000, tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và tử vong bà mẹ tuy có giảm nhưng không đáng kể và vẫn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi: 2005 là 82/1000, 2007 là 72/1000; Tử vong mẹ là: 2005 là 530/100.000 trẻ đẻ sống và 2007 là 405/100.000), phần lớn các trường hợp tử vong có sự liên quan đến thời điểm mang thai hoặc sau 6 tuần sinh đẻ. Điều chắc chắn rằng thực tế sẽ cao hơn vì theo TCYTTG (WHO) thì tử vong mẹ theo nguyên nhân gây tử vong gián tiếp sẽ bỏ sót rất nhiều [67].

1.2. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ LÀM MẸ AN TOÀN

Theo Tổ chức Y tế thế giới, làm mẹ an toàn là tất cả các phụ nữ đều được nhận sự chăm sóc cần thiết để được hoàn toàn khoẻ mạnh trong suốt thời gian “mang thai, sinh đẻ và sau đẻ”, bao gồm cả điều trị cấp cứu sản khoa khi có tai biến xảy ra [41], [59]. Chương trình làm mẹ an toàn tuyên bố rằng tất cả các phụ nữ mang thai phải được nhận chăm sóc cơ bản và chăm sóc chuyên biệt trước khi sinh [77]. Làm mẹ an toàn là một lĩnh vực ưu tiên trong chăm sóc sức khoẻ của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.

1.2.1. Chăm sóc trước sinh (CSTS)

Kiến thức về CSTS là chăm sóc những sản khoa cho người phụ nữ tính từ thời điểm có thai cho đến trước khi đẻ nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai được an toàn, sinh con khỏe mạnh và được chuẩn bị nuôi dưỡng tốt. Nội dung bao gồm: giáo dục, điều trị những tình trạng bệnh lý hoặc biến chứng xảy ra trong thời kỳ có thai, sàng lọc những nguy cơ, hướng dẫn và xác định nơi sinh, giải thích những biến chứng có thể xảy ra, địa điểm khám và xử trí để đảm bảo an toàn [68].

1.2.1.1. Khái niệm

Chăm sóc bà mẹ khi trong thời kỳ mang thai còn được gọi là CSTS. CSTS là những chăm sóc sản khoa cho người phụ nữ tính từ thời điểm có thai cho đến trước khi đẻ nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai được an toàn và sinh con khỏe mạnh.


Chăm sóc bà mẹ khi có thai có tầm quan trọng to lớn, vì nếu khám thai đầy đủ sẽ giảm được tử vong và bệnh tật cho cả mẹ lẫn con [33].

CSTS vẫn là một trong những chiến lược được sử dụng rộng rãi nhất để cải thiện sức khỏe bà mẹ đặc biệt trong thời kỳ mang thai tại các quốc gia đang phát triển. Mục đích của CSTS là một bà mẹ và một em bé khỏe mạnh sau thời kỳ mang thai do đã biết ngăn ngừa và điều trị những biến chứng thai nghén và phát hiện những phụ nữ có nguy cơ biến chứng sinh cao. WHO đã chứng minh được CSTS hiệu quả như thế nào trong việc có thể cải thiện sức khỏe bà mẹ nếu chương trình này được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị nhiễm trùng, thiếu máu; phát hiện và điều trị bệnh cao huyết áp do quá trình thai nghén [73].

Chǎm sóc tốt trong thời kỳ mang thai là đǎng ký quản lý thai và theo dõi thai từ khi mang thai cho đến khi chuyển dạ và phải khám thai ít nhất là 3 lần (một lần/1thai kỳ) để xác định những nguy cơ, biến chứng của thai nghén; giáo dục vệ sinh và nâng cao hiểu biết về quá trình thai nghén [33]. Diễn biến sức khỏe của người phụ nữ trong giai đoạn mang thai có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thai nhi, của em bé trong giai đoạn sơ sinh. Ví dụ: tình trạng thiếu máu nặng ở mẹ sẽ dẫn đến trẻ có thể bị ngạt, bị chết lưu hoặc nhẹ cân; hay điều kiện thiếu vệ sinh khi đẻ rất có thể dẫn đến việc trẻ sơ sinh bị uốn ván, bị nhiễm khuẩn v.v…

 Tỷ lệ phần trăm khám thai của một số nước đã và đang phát triển [119].


4+ lần

2-3 lần

1 lần

Mỹ Latinh/Caribe Trung Đông/Bắc Phi Châu Phi cận Sahara

Châu Á

Nước đang phát triển

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Tỷ lệ % phụ nữ khám thai của 1 số nước đã và đang phát triển


Biểu đồ 1.1. Sơ đồ số CSTS về tỷ lệ khám thai ở một số quốc gia


1.2.1.2. Một số nội dung trong chăm sóc trước sinh

Nội dung CSTS bao gồm: giáo dục, điều trị những tình trạng bệnh lý hoặc biến chứng xảy ra trong thời kỳ có thai, sàng lọc những nguy cơ, hướng dẫn và xác định nơi thai phụ sinh để đảm bảo an toàn. Hiểu biết những biến chứng có thể xảy ra và sẽ thường xảy ra khi nào và nếu xảy ra thì nên đến khám và xử trí ở đâu để đảm bảo độ an toàn, sinh đẻ phải được thực hiện một cách toàn diện và có hệ thống [33]. CSTS còn bao gồm chế độ ăn, chế độ làm việc, khám thai, tiêm phòng uốn ván, uống viên sắt/folic, phòng chống thiếu máu và tư vấn nuối con bằng sữa mẹ.

CSTS là một trong những nội dung quan trọng của công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đây cũng là một việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Trong công tác này, CSTS là công việc rất cơ bản, việc mang thai và sinh đẻ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tử vong, bệnh tật và tàn phế đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở hầu hết các nước đang phát triển, chiếm ít nhất 18% gánh nặng bệnh tật toàn cầu ở nhóm tuổi này, nhiều hơn bất kỳ một vấn đề sức khoẻ nào [19].


Sơ đồ 1 1 Các hoạt động chăm sóc trước sinh 4 11 CSTS là chăm sóc bà mẹ khi 1


Sơ đồ 1.1. Các hoạt động chăm sóc trước sinh [4], [11].


CSTS là chăm sóc bà mẹ khi có thai có tầm quan trọng to lớn, vì nếu khám thai đầy đủ sẽ giảm được tử vong và bệnh tật cho cả mẹ lẫn con. Chǎm sóc chu đáo trong thời kỳ mang thai là đǎng ký quản lý thai và theo dõi thai từ khi mang thai cho đến khi chuyển dạ và phải khám thai ít nhất là 3 lần ở 3 quý của thai kỳ để xác định những nguy cơ, biến chứng của thai nghén; giáo dục vệ sinh và hiểu biết về thai nghén [68].

Khám thai

Thai nghén là giai đoạn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, có thể dẫn dến những vấn đề sức khoẻ trầm trọng như bệnh tật và tử vong mà bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể mắc phải trong thời kỳ mang thai. Để hạn chế những vấn đề sức khỏe đó, khám thai là một biện pháp hết sức quan trọng. Ở Lào, theo qui định của Bộ Y tế, trong một lần mang thai người phụ nữ cần được khám thai định kỳ ít nhất 3 lần. Cũng như tại Việt Nam, theo qui định của Bộ Y tế, trong một kỳ thai nghén người phụ nữ cần được khám thai định kỳ ít nhất 3 lần ở 3 quý của thai kỳ [68], [3].

Bảng 1.1. Số lần khám thai và chất lượng bảo vệ thai [2]


Số lần khám thai

Quí 1

Quí 2

Quí 3


Nhận xét

T 2

T 3

T 4

T 5

T 6

T 7

T 8

T 9

0 lần









Thai hoàn toàn không bảo vệ

1 lần







Tác dụng bảo vệ rất kém

2 lần



x

x

Tác dụng bảo vệ kém

3 lần

x

x

x

Thích hợp với thai thường

5 lần

x

x

x

x

x


Chất lượng bảo vệ thai tăng dần theo số lần khám thai

10 lần

x

x

x

x

x

x

xxxx

12-13

xx

x

x

x

xx

xx

xxxx

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.


Người bà mẹ đi khám thai sớm và đầy đủ cho đến khi sinh là yếu tố quan trọng để tránh rủi ro cho bà mẹ và thai nhi. Khám thai mỗi tháng một lần cho đến khi được 28 tuần tuổi, sau đó cứ hai tuần một lần cho đến khi được 36 tuần, sau đó


nên khám thai hàng tuần cho đến tuần thứ 40. Chất lượng bảo vệ thai tăng lên theo số lần khám thai [4], [11].

Tiêm phòng uốn ván

Bệnh uốn ván là một trong năm tai biến sản khoa thường gặp, đây là một bệnh nặng, tỷ lệ tử vong cao cho mẹ và trẻ sơ sinh [4], [11]. Để dự phòng tai biến này, khi có thai các thai phụ cần đi khám thai sớm và khám thai định kỳ đủ 3 lần, qua khám thai cán bộ y tế sẽ giúp thai phụ tiêm phòng uốn ván, đồng thời kiểm tra xem việc tiêm phòng uốn ván có được thực hiện đầy đủ không.

Uốn ván sơ sinh là một trong 5 tai biến sản khoa mà chúng ta có thể phòng chống được nếu trong thời gian mang thai người phụ nữ được tiêm đủ 2 mũi uốn ván (Nếu người phụ nữ đã được tiêm phòng uốn ván trong lần mang thai trước, thì lần mang thai này chỉ cần tiêm một mũi thêm).

Chế độ ăn uống của bà mẹ khi mang thai

Chế độ ăn uống của bà mẹ có vai trò quan trọng quyết định đối với sự phát triển của thai nhi. Nếu bà mẹ được ăn uống tốt, đầy đủ các chất dinh dưỡng thì bà mẹ sẽ lên cân tốt. Trong suốt thời kỳ có thai, bà mẹ cần tăng được từ 10-12 kg (trong đó 3 tháng đầu tăng 1 kg, 3 tháng giữa tăng 4-5kg, 3 tháng cuối tăng 5-6 kg). Tăng cân tốt, bà mẹ sẽ tích luỹ mỡ là nguồn dự trữ để tạo sữa sau khi sinh. Những trường hợp bà mẹ bị thiếu ăn hoặc ăn uống kiêng khem không hợp lý chính là nguyên nhân của suy dinh dưỡng bào thai, trẻ đẻ ra có cân nặng thấp dưới 2500g.

Ăn uống hợp lý là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất, các thức ăn có nhiều chất sắt là các loại đậu đỗ, các loại rau xanh (rau ngót, rau dền, rau khoai, rau bí...), các loại phủ tạng như tim, gan, thận... Bổ sung viên sắt là hết sức cần thiết.

Ngay từ khi bắt đầu có thai, tất cả các bà mẹ nên uống viên sắt. Với loại viên có hàm lượng là 60mg sắt nguyên tố, ngày uống một viên trước khi ngủ. Uống liên tục trong suốt thời kỳ có thai đến một tháng sau khi sinh. Để tăng quá trình chuyển hoá và hấp thu sắt, cần tăng cường vitamin C, do đó cần ăn đủ rau xanh và quả chín.


Tư vấn thiếu dinh dưỡng cho bà mẹ trong thời kỳ có thai, người phụ nữ phải ăn để đảm bảo dinh dưỡng cho chính bản thân họ và đứa trẻ. Bà mẹ được dinh dưỡng tốt, cân nặng của bà mẹ tăng 9-12 kg vào tháng cuối trước khi sinh sẽ đảm bảo không những bản thân họ khỏe mạnh, ít khi phải can thiệp khi đẻ, hồi phục nhanh sau đẻ, đủ sữa cho con bú, mà đứa con sinh ra thường đủ tháng, khỏe mạnh và phát triển tốt. Ngược lại nếu dinh dưỡng kém, bà mẹ thường có xu hướng dễ mắc bệnh, đứa trẻ thường chậm phát triển về thể lực và trí tuệ [4].

Thiếu máu là bệnh dinh dưỡng hay gặp ở phụ nữ có thai, đặc biệt là ở những người đẻ dày và ăn uống thiếu thốn. Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ cả mẹ lẫn con. Đối với mẹ: Người mẹ thiếu máu thường mệt mỏi, chóng mặt, khó thở khi gắng sức, khi đẻ có nhiều rủi ro.

Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ

Hoạt động tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ nêu lên lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ; hướng dẫn bà mẹ đầy đủ về kỹ thuật nuôi con bằng sữa mẹ và giải thích lợi ích của bú mẹ; cách giữ gìn nguồn sữa mẹ; hỏi kinh nghiệm nuôi con của bà mẹ; giải thích tầm quan trọng của việc chăm sóc vú và xin phép khám, núm vú và tạo niềm tin là tất cả bà mẹ đều có thể nuôi con bằng sữa mẹ.

Tư vấn thiếu máu cho bà mẹ mang thai [4], [1]

Để phòng chống thiếu máu, bên cạnh việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế độ làm việc hợp lý, tất cả phụ nữ có thai cần uống thêm viên sắt/folic. Nguyên tắc sử dụng là càng sớm càng tốt, ngày uống 1 viên trong suốt thời gian có thai đến hết 1 tháng sau đẻ. Tối thiểu uống trước đẻ 90 ngày và kéo dài sau đẻ 42 ngày. Nếu thai phụ có biểu hiện thiếu máu rõ rệt có thể tăng từ liều dự phòng lên liều điều trị 2-3 viên/ngày. Việc tuân thủ theo chế độ trên là rất quan trọng để dự phòng và điều trị thiếu máu.

Tỷ lệ tử vong khi đẻ ở những người mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở bà mẹ bình thường. Do đó người ta đã coi thiếu máu là một yếu tố nguy cơ trong sản khoa. Đối với con, thiếu máu thường gây tình trạng đẻ non và tử vong sơ sinh cao. Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh thường là do mẹ bị thiếu sắt nên lượng sắt dự trữ của cơ thể trẻ thấp.


1.2.1.3. Tình hình chăm sóc trước sinh trên thế giới

CSTS là một trong bốn mục tiêu quan trọng của chương trình làm mẹ an toàn kết hợp với kế hoạch hoá gia đình, sinh đẻ an toàn và chăm sóc sản khoa thiết yếu. Chương trình “Làm mẹ an toàn” tuyên bố rằng tất cả các phụ nữ mang thai phải được nhận chăm sóc cơ bản và chăm sóc chuyên biệt trước khi sinh. CSTS ngoài những điều trị về thể chất như: khám sức khoẻ, tiêm vac xin và kê thuốc còn bao gồm những tư vấn về chế độ ăn và các lời khuyên về việc làm mẹ an toàn [77].

Ngày 19/9/2008 Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) công bố tỷ lệ chăm sóc trước sinh ở các nước đang phát triển tăng 15% trong thập kỷ qua, 75% bà mẹ mang thai được chăm sóc trước sinh [38]. Báo cáo gần đây nhất của UNICEF tháng 1 năm 2009 tỷ lệ phụ nữ độ tuổi 15-49 có thai được khám thai ít nhất 1 lần bởi cán bộ y tế có chuyên môn trên toàn thế giới là 77%, thấp nhất là khu vực Nam Á 68%, cao nhất là khu vực Mỹ La tinh và Caribe 94%, các nước đang phát triển là 77% và các nước kém phát triển là 64%. Ở cấp độ quốc gia việc sử dụng dịch vụ này còn thấp hơn nhiều như ở Afghanistan 16%.

Dịch vụ CSTS ở các nước cũng khác nhau, tại Somalia là 26%, Ethiopi là 28%, Lào là 35%, Nê pan là 44%, Ấn-độ là 74%, Miên-ma là 76%, Malaysia là

79%, Philippin là 88%, Thái Lan là 98%, Úc là 100% và Việt Nam là 91% [101].

Tỷ lệ phụ nữ có thai khám thai ít nhất 1 lần trên toàn thế giới là 68%, thấp nhất là ở Châu Phi 63%, Châu Á 65%, châu Mỹ La Tinh 73%, cao nhất là Bắc Mỹ và Châu Âu 97%. Ở một số quốc gia việc sử dụng dịch vụ này còn thấp như ở Nepal 15%, Pakistan 26%. Trong khi đó một số nước có tỷ lệ khám thai khá cao như Srilanka là 97%, Mexico 91%, [61]. Một cuộc điều tra ở Ấn Độ cho thấy khoảng 60% phụ nữ cảm thấy chăm sóc thai nghén là không cần thiết [98]. Ndyomugyenyi và cộng sự (1998) thấy rằng rất nhiều phụ nữ trong nghiên cứu của họ tại vùng nông thôn Uganda không biết rằng chăm sóc thai nghén là để theo dõi sự phát triển của thai nhi và tình trạng sức khoẻ của bà mẹ. Tại Việt Nam, theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sinh sản năm 2008 có 86,7% thai phụ khám thai từ 3 lần trở lên, trong đó cao nhất là vùng đồng bằng Sông Hồng (96,28%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (74,57%) [19]. Theo báo cáo tổng kết của Vụ


Sức khỏe sinh sản năm 2003 có 88,45% thai phụ tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi. Một số nghiên cứu trong những năm gần đây tại các địa phương cho kết quả như sau: tại Hương Long, Huế 83,3% (2002) [33]. Tại Chí Linh, Hải Dương 85,4% (2002), tại

Tiên Du, Bắc Ninh 90,5% (2003) [62].

Theo WHO, khoảng 550.000 trẻ sơ sinh chết vì uốn ván rốn mỗi năm, trong đó có 220.000 trường hợp ở khu vực Đông Nam Á, chiếm 37% uốn ván rốn trên thế giới. Theo Caro Bellamy, giám đốc điều hành UNICEF, một trong những nguyên nhân làm cho phụ nữ mang thai ít nhận được các dịch vụ chăm sóc trước sinh là do những ưu điểm của nó chưa được nhấn mạnh và chịu ảnh hưởng của trình độ văn hoá cũng như điều kiện kinh tế của bà mẹ [81]. Ngoài số lượng chết khi mang thai, mỗi năm hơn 50 triệu phụ nữ bị biến chứng khi mang thai, nhiều trường hợp trong số đó dẫn tới ốm yếu kéo dài hoặc mất khả năng sinh con [99].

Nghiên cứu tại tỉnh Anhui Trung Quốc hơn một nửa số người phụ nữ khám thai lần đầu tiên vào tuần thứ 13 của thai kỳ, 36% khám thai ít hơn 5 lần và khoảng 9% không khám thai lần nào và lý do chính của việc không khám thai là do người phụ nữ cho rằng việc khám thai là không cần thiết [120]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới tại các nước đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ khám thai đủ 3 lần khoảng từ 10% đến hơn 90%; đặc biệt phụ nữ nghèo ở các vùng nông thôn không khám thai đủ theo quy định [111].

Tình hình CSTS ở Việt Nam, bên cạnh việc đi khám thai sớm, khám thai định kỳ đủ 3 lần là hết sức cần thiết. Theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sinh sản năm 2003 có 83,79% thai phụ khám thai từ 3 lần trở lên, trong đó cao nhất là vùng đồng bằng Sông Hồng (96,28%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (74,57%) [30]. Theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sính sản năm 2003 có 88,45% thai phụ tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi.

Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về SKSS ở các nước đang phát triển từ năm 1990-2006 cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh của các bà mẹ bao gồm: trình độ học vấn của bà mẹ và người chồng, tình trạng hôn nhân, tính sẵn có của dịch vụ, chi phí y tế, thu nhập hộ gia đình, nghề nghiệp của bà mẹ, khả năng tiếp cận các phương tiện truyền thông và lịch sử sinh sản phức

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/04/2024