Thái Độ Của Giáo Viên, Phụ Huynh Và Vị Thành Viên Về Truyền Thống Dân

Có thể trong môi trường đô thị quá trình xã hội hóa cá nhân mạnh mẽ hơn và do đó trẻ vị thành viên ở đây cũng trưởng thành về mặt xã hội hơn so với trẻ ở vùng nông thôn. Thế nhưng những rung động, những cảm xúc mới của trẻ vị thành niên ở hai nơi qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy họ đều trải qua những cảm xúc dường như là giống nhau. Có lẽ những cảm xúc này có nguồn gốc nội tại của bản chất loài nhiều hơn là bản chất xã hội nên nó mang tính phổ biến cho mọi cá thể ở độ trưởng thành ấy.

Những cảm xúc mới trong quan hệ nam nữ mà chúng tôi tập trung chú ý trên đây không phải là toàn bộ mối quan hệ tình bạn của tuổi vị thành niên mà nó chỉ là nét đặc trưng riêng của tình bạn ở lứa tuổi này. Còn về tình bạn mang ý nghĩa rộng lớn hơn nó bao gồm cả tình bạn cùng giới và bạn khác giới. Như vậy, có thể nhìn tổng thể tình bạn của lứa tuổi này vẫn mang đúng nghĩa của nó là hồn nhiên, trong sáng và vô tư... nhưng bước đầu có những dấu hiệu vượt ra khỏi khuôn khổ tình bạn thông thường.

Ta có thể tìm hiểu thêm xem các thầy cô giáo - những người trực tiếp dạy dỗ và tiếp xúc với các em hàng ngày nhìn nhận về tình bạn của trẻ vị thành niên như thế nào?

"Về tình bạn... bây giờ hầu như nam nữ không cách biệt thì phải, nó gần gũi chứ không xa lạ, xa cách như trước kia. Ngày trước ngồi cạnh nhau con trai con gái vẫn cảm thấy ngượng, nhưng bây giờ là bình thường không sao cả. Nhiều khi thậm chí mình còn cảm thấy nó không còn ranh giới nam nữ nữa. Còn chuyện tình cảm từ tình bạn đến tình yêu thì có lẽ là phát triển rất tốt" (Nữ 40 tuổi. GV Văn. HN).

"Vấn đề tình bạn thì tôi nghĩ... bây giờ rất bình thường. Bây giờ tôi có một nhận xét thế này là con gái thích chơi với con trai hơn, thích kết bạn với con trai hơn là với bạn gái. Chơi với bạn nam nó khác giới nên dễ thông cảm với nhau hơn... Năm lớp 10 đã cho nhau mượn sách vở rồi tạo điều kiện có khi là đến nhà nhau học. Tất nhiên là chưa nghĩ cái cao hơn tình bạn, nhưng mà qua đó thấy giữa nam và nữ khác giới kết bạn dễ hơn. Theo tôi nghĩ tình bạn trong học sinh giữa nam và nữ nếu nó dừng lại ở mức như hiện tại thì tốt. Thì rất tốt chứ không phải không? (Nam 50 tuổi, GV. Giáo dục công dân. TB).

Có lẽ nhận xét của các thầy cô về tình cảm của các học trò của mình cũng thống nhất với các nhận định của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn thấy phảng phất đâu đó trong các cuộc phỏng vấn, trong cái ý tứ và sắc thái cảm xúc giới tính ở tuổi vị thành niên, rằng, các mối tình đầu tiên và bí ẩn đang dần dần nảy nở...

* Tình yêu VTN

Tình yêu ở tuổi VTN là một đề tài phức tạp và hấp dẫn. Nhưng do tính chất phong phú đa dạng và chưa định hình, chưa rõ nét của nó nên rất khó có những khái quát đặt tên cho nó. Đã có nhà khoa học nhận xét về các loại tên về tình yêu tuổi VTN như "Các nhà tâm lý học thì gọi đó là tình yêu cảm tính. Các nhà thơ thì gọi nó là những mối tình lãng mạn nhất thời. Các nhà đạo đức thì cho rằng đó là tình yêu trong trắng. Các nhà tâm thần học thì gọi đó là tình trạng rối loạn thần kinh. Các nhà thần học thì gọi đó là những mối tình của Chúa...".

Dẫu được gọi như thế nào, nhưng khi khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy tình yêu vị thành niên là những mối tình quá độ từ tình bạn sang tình yêu. Sự quá độ này được nhận biết bởi nó không còn là tình bạn, nhưng cũng chưa hẳn đã là tình yêu. Đó là những mối tình nhạy cảm, mong manh, mang đầy ngộ nhận và đa số là không mục đích.

Những mối tình này cơ bản không phải được hình thành trên cơ sở ý thức mà trên cơ sở các rung động duy cảm, hơn thế, nó lại được thúc đẩy bởi những động lực sâu xa của các ham muốn tình dụng đang hình thành. Vì thế tính chất bùng cháy và chóng tàn của nó là có cơ sở hiện thực và mang tính phổ biến.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Có lẽ vì thế mà mặc dù đa số đều thừa nhận mối tình đầu ở tuổi VTN là mối tình đẹp nhất của đời người nhưng cho đến nay sự thành công của tình yêu ngay từ mối tình đầu cũng không phải là nhiều. Và nó vẫn luôn giấu kín trong mình những bí ẩn mà những ai đã trải qua nó cũng mới chỉ là lờ mờ nhận ra. Hình như mối tình đầu ở tuổi VTN nó bất ngờ đến và bất ngờ ra đi quá nhanh nên dường như không mấy ai kịp định thần để có kinh nghiệm về nó.

Trong nhóm các đối tượng VTN được khảo sát ở cả hai điểm nghiên cứu, cả nam và nữ, cả những người đang học và những người đã thôi học rất ít người thừa nhận họ đang yêu. Đa số họ thừa nhận hoặc có bạn thân khác giới hoặc là có những rung động mới lạ đối

Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường - 5

với bạn khác giới, các em tự nhìn nhận và đánh giá về tình cảm và quan hệ của mình khi thảo luận nhóm và phỏng vấn.

"Chúng em gọi là yêu nhưng chỉ là hơn tình bạn thôi... chúng em thường hay nói chuyện với nhau, quan tâm, để ý đến nhau" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).

"Em vẫn nghĩ là tình bạn học thôi chứ chưa nghĩ đến chuyện yêu đương. Em nghĩ nếu em nói ra (với bạn) thì không biết tình cảm của bạn ấy có dành cho em hay không, nếu không thì xấu hổ lắm. Em gợi ý những chuyện yêu đương của bạn bè xem ý kiến của bạn phản ứng như thế nào.

Nếu bạn không phản đối, bạn ấy bình thường thì lúc đó mình sẽ hỏi bạn xem bạn trả lời ra sao. khi em hỏi bạn có người yêu chưa nếu bạn bảo chưa thì em đưa ra ý kiến của em. Bạn ấy nói không phải là bạn không yêu mà phải cố gắng nghĩ đến chuyện học hành đừng suy nghĩ đến yêu đương nhiều quá" (Nam 18 tuổi. HS 12/HN).

"Chúng em cũng chưa có tình yêu đâu. Chỉ có cảm giác rất cảm mến nhau cả nam và nữ" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).

"Bọn em thấy yêu ở lứa tuổi học trò thì tình yêu ấy cũng đẹp nhưng mà phải có khoảng cách nào đó để giữ gìn cho tình bạn trong sáng. Sau này nó không thành cái gì thì ra trường cũng nhớ" (Nữ 16 tuổi. HS 11/HN).

Những ý kiến trên cho ta thấy các em còn chưa nhận biết được thế nào là tình bạn và thế nào là tình yêu. Có lẽ sự lẫn lộn đó cũng dễ hiểu bởi hầu như tình yêu của họ chủ yếu được nảy nở và vun đắp từ tình bạn thân thiết.

Có lẽ trong tình cảm và hành vi của họ khi biểu hiện ra có lúc là tình bạn và có lúc lại là tình yêu. Chính sự nhập nhằng ấy tạo nên những cảm xúc tuyệt vời của cái tuổi đang lớn - vị thành niên.

Nhìn chung qua các cuộc phỏng vấn và cuộc thảo luận nhóm, những người nghiên cứu thật khó nắm bắt được quan niệm của họ về tình yêu. Có lẽ do họ chưa có

kinh nghiệm nên các ý kiến của họ hết sức mơ hồ và lúng túng. Họ nói rất chân thật và hồn nhiên khi được hỏi "em nghĩ như thế nào về tình yêu?".

"Thực ra bọn em cũng chưa hiểu thế nào là yêu. Theo quan niệm của bọn em chưa hiểu yêu là gì nên chưa thể khẳng định là yêu được... thấy hai bạn có tình cảm riêng với nhau thì chỉ nói hai người kết nhau thôi" (Nữ 17 tuổi. HS 11/TB).

"Nói chính xác bọn em cũng chưa xác định được thế nào là yêu" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).

Tình dục

Không tình

Quá độ tình

Biểu hiện của tình

Có thể nói khái quát tình yêu VTN được biểu hiện theo tiến trình sau đây:

Tình yêu

Khảo sát bảng hỏi 600 em trong độ tuổi 15-18 thì ta thấy có 36,7% các em trả lời là có bạn thân khác giới. Trong số 320 em nam thì có 149 em có bạn gái thân (45,5%) và trong 280 em nữ có 65 em có bạn trai thân (25,5%).

Để nhận diện tình yêu VTN ta tìm hiểu thêm ý kiến các thầy cô giáo.

"Bây giờ các em học sinh có những cử chỉ, thái độ tỏ tình với nhau bạo dạn hơn, tự nhiên hơn" (Nam 45 tuổi. GV. Giáo dục công dân. HN).

"Trong một lớp điểm ra có rất nhiều đôi. Yêu theo cảm tính là chính, yêu kiểu đầu mày cuối mắt, yêu theo kiểu như là sự ngưỡng mộ. Đại đa số có lẽ yêu chân thật. Có thể có đứa nghĩ yêu nhau sau này lấy được nhau, có đứa đang tuổi học trò nó nhìn cái gì nó cũng thấy màu hồng, nó cứ yêu, yêu để mà sống" (Nữ 45 tuổi. Giáo viên văn, HN).

" Hiện nay có những đôi... cảm tưởng có một cái gì đấy đắm đuối, nó

không như người ta yêu nhau là phải kín đáo tế nhị. Chúng hầu như là phớt ăng-lê. Cô giáo ở lớp cũng mặc kệ, cứ to nhỏ tâm sự coi như không có cô... Có lẽ nó yêu động cơ chân thật. Con gái khoảng lớp 12 trừ đứa xâu xấu không ai để ý còn đại đa số là có người yêu cả. Đứa nào mà phải học đúng đắn thì không bao giờ nó yêu. Còn đứa nào mà sạch nước cản thì không yêu trong trường thì yêu các anh ở ngoài. Con trai còn ít, con gái ở tuổi lớp 12 cũng 70-80% là yêu" (Nam 46 tuổi. GV vật lý. HN).

Đó là ý kiến của các thầy các cô ở thành phố nhận xét về tình yêu các học trò của mình. Qua ý kiến các thầy cô ta thấy học sinh VTN ở thành phố yêu nhau mạnh dạn, công khai và đa số các em năm cuối là đã có người yêu, nhất là các em nữ. Sự biểu hiện tình cảm "đắm đuối" của họ nơi công cộng như thế cũng làm cho người lớn thật đáng suy nghĩ. Nhất là môi trường trong các ý kiến của thầy cô ta nhận thấy có điều lo lắng.

Nhưng cùng với những nhận xét trên ta lại thấy có những nhận xét, những đánh giá chung về tình yêu VTN của các thầy cô khác cũng rất phấn khởi:

"Thế nhưng mà học sinh cấp III thì hiện tượng yêu nhau thì nó thường quan hệ trên ngưỡng cửa tình bạn một chút" (Nam 51 tuổi. GV Văn. TB).

"Nhìn chung tình cảm các em đẹp lắm, trong sáng" (Nữ 42 tuổi. GV Văn

TB).

"Nhìn chung quan hệ học trò là quan hệ trong sáng, có trường hợp khác nhưng ít thôi" (Nữ 45 tuổi. GV Sử. HN).

Như thế nhận xét của các thầy cô về tình yêu VTN cũng có những ý kiến khác nhau. Về cơ bản, cũng có sự thống nhất với những tâm sự của chính các em là tình yêu của các em đa số là trên ngưỡng tình bạn một chút, nghĩa là những mối tình quá độ tình yêu, cũng đã có những mối tình say đắm nhưng chưa nhiều. Tình yêu đa phần là cảm tình, và do đó nó rất đẹp và rất trong sáng.

Sự khác biệt của tình yêu VTN giữa thành phố và nông thôn là khá rõ nét qua các ý kiến của các thầy. Sự khác biệt còn cho thấy giữa hai nhóm VTN nam và nữ. Các em ở

thành phố khi yêu mạnh dạn và công khai hơn các em ở nông thôn và các em nữ yêu nhiều hơn các em nam.

- Những quan điểm khác về tình yêu VTN.

Đối với các em đi học thì em nào cũng xác định được rằng ở tuổi của các em việc học tập là chính do đó, học tập là mối quan tâm lớn nhất của các em. Chính vì lẽ đó mà các em tự kìm chế mình, cố gắng xa lánh tiếng gọi của tình yêu.

"Em bây giờ đang học tập thì chưa thể yêu được" (Nam 16 tuổi. HS 10/TB).

"Em nghĩ tuổi mình còn phải học để phấn đấu khi nào mình có việc làm ổn định mình yêu nhau cũng được. Bây giờ còn phải học hành, còn phải lo cho tương lai của mình" (Nữ 17 tuổi. HS 11/HN).

"Em chưa muốn nghĩ đến chuyện đó vì em còn là học sinh dồn tất cả cho học tập" (nữ 18 tuổi. HS 12/TB).

"Em xác định khi nào học xong có bạn gái thân cũng được. Giờ chỉ quan hệ bạn bè thôi" (Nam 18 tuổi. HS 11/TB).

Bố mẹ không ngăn cấm các em yêu đương nhưng bố mẹ luôn luôn dạy bảo, nhắc nhở các em nhiệm vụ học tập. Chính sự quan tâm sát sao của bố mẹ đã làm cho các em không xao nhãng việc học tập và lập nghiệp.

"Bố mẹ khuyên em chú tâm vào học hành không nên đi chơi quá nhiều. Trong quan hệ phải có giới hạn không nên vượt quá giới hạn đó" (Nam 16 tuổi. HS 10/HN).

"Bố mẹ em cũng biết những quan hệ đó nhưng mà riêng lúc nào bố mẹ em cũng nhắc nhở, quan hệ bạn bè cho tốt, phải chú tâm vào học tập" (Nữ 16 tuổi. HS 10/HN).

"Em luôn nhớ tới bố mẹ dặn còn phải học, chưa được nghĩ tới những cái linh tinh" (Nữ 16 tuổi. HS 10/TB).

Như vậy, nếu đứng ở quan điểm phát triển bao gồm cả sự phát triển cá nhân và sự phát triển xã hội thì một cơ chế hợp lý nhằm định hướng và điều chỉnh sự phát triển bền vững và lành mạnh của trẻ vị thành niên trong xã hội hiện đại là hết sức cần thiết.

* Tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên

Tình dục về bản chất là một bản năng của con người. Nhưng con người dù là một sinh vật - xã hội thì trong đời sống xã hội con người thường hiện diện ra là một nhân cách văn hóa. Nghĩa là con người thường hiện ra với tư cách là đặc trưng giới chứ không phải là đặc trưng giống (giới tính). Vì thế khát vọng tìm đến với nhau giữa nam và nữ là khát vọng tình yêu.

Mang thai

Nếu tình yêu là phát hiện lớn nhất của trẻ VTN thì tình dục là một khám phá mang tính cách mạng. Nó không chỉ là khám phá đối với bạn khác giới mà là một khám phá thực sự đối với chính bản thân. Và, với tình dục cuộc đời họ có thể xoay chuyển sang một hướng hoàn toàn khác với mong muốn của họ. Nhất là đối với trẻ vị thành niên nữ.

Với người yêu

Tình dục

Tình dục lệch

Khi tìm hiểu về quan hệ tình dục trước hôn nhân - có lẽ đây là vấn đề quá nhạy cảm, tế nhị nên dường như không em nào thừa nhận mình đã có quan hệ đó. Và đa số các ý kiến của các em đều không tán thành.

Nhiều em khi hỏi về chuyện quan hệ tình dục trước hôn nhân các em nói rằng:

"Em nói, chúng em mới là tình cảm học trò chưa khi nào cầm tay hay hôn nhau. Em thật chưa bao giờ dám nghĩ chuyện tình dục" (Nam 18 tuổi. HS 12/TB).

"Chúng cháu cũng chẳng biết làm chuyện ấy" (Thảo luận nhóm nữ HS.TB).

"Em nghĩ... bao giờ cũng phải có trinh tiết làm đầu, nếu mất rồi thì người con trai yêu mình đòi hỏi thì mình tính sao... Em nghĩ trinh tiết của người phụ nữ là đầu tiên" (Nam 15 tuổi. HN).

"Thế theo em trinh tiết của phụ nữ bây giờ có quan trọng nữa không? - Có đấy chị ạ... Người con gái cũng chỉ có một cái ấy là quan trọng thôi" (Nữ 18 tuổi. HS/HN).

"Chúng nó vẫn cho là rất quan trọng, rất giữ gìn. Hiếm đứa nó cho là bình thường" (Nữ 43 tuổi. GV Sinh vật. HN).

Tuy nhiên, quan điểm về trinh tiết của người phụ nữ trong thời điểm hiện nay đã có một sự chuyển biến và đã khác, nó không còn nặng nề như xưa nữa.

"Chị nghĩ là ít nặng nề, chữ trinh ít đứa nó nghĩ đến mà chỉ yêu nhau thì chúng nó nghĩ là chắc chắn lấy nhau" (Nữ 41 tuổi. HN).

"Bây giờ có một số không quan trọng lắm trinh tiết của người vợ nhưng cũng có một số vẫn đặt cái đấy là quan trọng..." (Nữ 25 tuổi. YT.TB).

"Bây giờ dư luận xã hội có quan trọng trinh tiết không? - Cũng không quan trọng đâu chứ làng thì chuyện đấy (quan hệ tình dục) nó cũng xảy ra nhiều lắm" (Nữ 18 tuổi. HS 11/TB).

"Trinh tiết hiện nay cũng không được coi trọng lắm" (Nữ 18 tuổi.

HS 12/HN).

Vì thế ở không ít trường hợp các em cho rằng tình dục ở tuổi VTN là rất có thể.

Và cũng có thể chấp nhận được. Đó là suy nghĩ của các em.

"Yêu nhau mà tin chắc là lấy nhau thì được" (Nữ 16 tuổi. HS/HN),

"Theo cháu nghĩ quan hệ tình dục trước hôn nhân (có thể được) nếu họ

xác định là họ sẽ lấy nhau". Sự quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ là ràng buộc" (Thảo luận nhóm nữ HS.TB).

Với những quan niệm như thế, rằng nếu "tin chắc là lấy nhau" và "nếu xác định là sẽ lấy nhau", rằng đó là cách "ràng buộc" nhau thì theo một số em có thể chấp nhận quan hệ tình dục ở tuổi VTN.

Trên đây là một vài ý kiến trong số khá nhiều ý kiến khẳng định tình trạng quan hệ tình dục ở tuổi VTN. ý kiến của các thầy cô giáo về quan hệ tình dục VTN còn mang tính dè dặt. Đa số các thầy cô dù có khẳng định quan hệ yêu đương của trẻ VTN bây giờ bạo dạn, thoải mái và nhiều hơn trước. Nhưng các thầy vẫn cho rằng quan hệ tình dục ở tuổi các em là còn hiếm. Đặc biệt các thầy ở vùng nông thôn Thái Bình còn rất tin chắc vào quan sát và khẳng định của mình. Rằng quan hệ tình dục tuổi học sinh ở trường các thầy là hãn hữu. Có thầy còn quả quyết "20 năm tôi dạy học ở đây chỉ xảy ra một trường hợp học sinh gái có thai"(?).

Trái lại, như chúng tôi vừa trích dẫn ý kiến của các cán bộ y tế tại cả hai cộng đồng được khảo sát đều khẳng định tình dục trong tình yêu VTN là mang tính phổ biến. ý kiến này rất mạnh mẽ ở các cán bộ y tế Hà Nội. Có lẽ các nhà chuyên môn có lý khi khẳng định tính phổ biến của quan hệ tình dục trong tình yêu VTN. Bởi vì, hơn ai hết nơi các cộng đồng dân cư họ trực tiếp là người phải giải quyết các hậu quả của quan hệ đó. Họ phải thường xuyên nạo hút thai, phải đỡ đẻ cho các trẻ em gái VTN nên có lẽ sự thật về chuyện này họ biết hơn cả.

Tuy nhiên, khi nhìn tình yêu VTN qua số lượng ngày càng nhiều trẻ em gái đến "giải quyết hậu quả" có thể suy nghĩ của họ cũng phần nào đã bị chủ quan và thành kiến. Vì thế mà trong đánh giá của họ ở một khía cạnh nào đó bị quá lên. Nhưng ở đây ta cũng nên suy nghĩ thêm là chuyện có thai và nạo hút thai ở trẻ vị thành niên là một câu chuyện còn được hết sức giữ bí mật và chỉ có các chuyên gia y tế ở cơ sở mới nắm được thực chất những bí mật này thôi. Do vậy dù cái nhìn của họ nếu có bị khúc xạ đối với tình yêu VTN thì những đánh giá ấy cũng có xuất phát điểm vững chắc là thực tế công việc hàng ngày của họ.

Khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy quan hệ tình dục trước hôn nhân ở VTN có sự khác biệt giữa các vùng nghiên cứu và nhóm nghiên cứu.

Thứ nhất là giữa vùng nghiên cứu, sự khác biệt giữa hai vùng nghiên cứu về tình dục VTN là khá rõ nét. ở nông thôn Thái Bình, quan hệ tình dục trước hôn nhân là ít, chủ yếu rơi vào những mối tình của các em đã thôi học và thường là quan hệ yêu đương của các em đã công khai, hai gia đình đã có sự "đi - lại" với nhau. Nghĩa là tình yêu được định hướng tới hôn nhân. Và, ta chỉ biết được họ đã có quan hệ tình dục với nhau vì thấy họ có thai hoặc phải đi nạo thai hoặc buộc phải cưới sớm.

Trong nhóm học sinh ở Thái Bình cũng có chuyện quan hệ tình dục VTN nhưng lại ở các em nữ và đối tác của họ không phải là bạn học trong trường mà là những thanh niên lớn tuổi hơn ở thôn làng.

Một vài em nữ học sinh có thai và phải nạo hút thai hoặc bỏ học là ở các quan hệ này. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của các em, của các thầy cô và các cán bộ y tế ở đây những trường hợp như thế còn là hiếm.

Khác với ở nông thôn, ở thành phố (HN) các ý kiến cho thấy tình dục VTN tỏ ra đa dạng và phong phú hơn. Nó không chỉ ở nhóm thôi mà cả ở nhóm đang đi học. Nhiều ý kiến của cán bộ y tế nêu trên đã khẳng định điều này có lẽ ta không cần phải trích thêm những ý kiến nữa làm gì. Nếu ở nông thôn Thái Bình những đối tượng chuẩn bị kết hôn thường có quan hệ tình dục với nhau thì ở Hà Nội các đối tượng có quan hệ tình dục VTN lại rơi vào nhóm các em đua đòi, kiểu ngựa non háu đá, hoặc do tuổi còn bồng bột nhẹ dạ cả tin và chủ yếu rơi vào những em học kém, học không tiếp thu tốt nên có xu hướng đi vào chơi bời trai gái.

Như vậy, tình dục VTN đang có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển đời sống xã hội. Nó cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với xã hội ta. Phải chăng tình dục VTN là gắn liền với sự hiện đại hóa xã hội.

Tuy vậy, như đã trình bày ở phần trước lứa tuổi VTN là lứa tuổi của những mối tình đầu "vô tư" đầy hấp dẫn. Từ tình yêu này dẫn đến quan hệ tình dục là rất gần. Theo một điều tra xã hội ở Hà Nội có đến 15% thanh niên 15 - 19 tuổi đã sinh hoạt tình dục

trước hôn nhân. Số VTN có quan hệ tình dục ở độ tuổi sớm hơn 14-16 tuổi ngày càng tăng, một nửa số đó không hề biết gì về sức khỏe tình dục và ngăn ngừa thai nghén.

Quan hệ tình dục thiếu hiểu biết như vậy dẫn đến có thai ngoài ý muốn. Trong những trường hợp đó, phương án "giải quyết" được các VTN lựa chọn là nạo phá thai. Một thông tin đáng lo ngại là, tỷ lệ nạo phá thai của nước ta vào một trong ba nước cao nhất thế giới trong đó 20% là lứa tuổi VTN. Cũng theo số liệu điều tra trên, số nữ 15 - 19 tuổi nạo phá thai tăng từ 0,84% năm 1996 lên 1,2% năm 1997. Hiện nay, theo số liệu của Trung tâm Dân số - Sức khỏe - Môi trường TW Đoàn Thanh niên hàng năm có khoảng

300.000 ca dưới 20 tuổi nạo phá thai.

Quan hệ tình dục thiếu hiểu biết còn dẫn đến các bệnh lây lan qua đường tình dục ngày một đông ở lứa tuổi VTN. Theo con số báo cáo y tế, năm 1998, nhiễm HIV ở lứa tuổi 10 - 19 tăng hơn so với năm 1996. Số trẻ em 12 - 15 tuổi mắc căn bệnh lây lan qua đường tình dục chiếm tỷ lệ 1,16% (đối với bệnh lậu) và 1,5% các bệnh da liễu khác. Năm 1989, gái mại dâm ở tuổi VTN là 2,1%. Năm 1990 chiếm 5,22% và hiện nay có khoảng 12%. Tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em, buôn bán trẻ em gái... là điều lo lắng của nhiều gia đình và xã hội hiện nay.

Những con số trên đây về quan hệ tình dục, nạo phá thai, nạn mại dâm, HIV... ở lứa tuổi VTN đã cảnh báo, thúc giục người lớn (thầy cô giáo, phụ huynh, những người có trách nhiệm trong xã hội, đoàn thể, y tế...) phải có định hướng và giải pháp cứu giúp thế hệ trẻ. Nếu giáo dục không chủ động trang bị cho VTN những tri thức, kỹ năng về SKSS, SKTD thì các em sẽ đi tìm kiếm những vấn đề mà họ muốn biết, tò mò, quan tâm qua các kênh khác nhau mà giáo dục không hề mong muốn và khó có thể kiểm soát nổi. Ví dụ, những thông tin "tế nhị", "nhạy cảm" về giới tính, tình dục không phải là "khó tìm" đối với VTN - phim ảnh, video, ấn phẩm đồi trụy, các tụ điểm tệ nạn xã hội, mạng Internet...

Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên nhưng một nguyên nhân cơ bản là do thiếu hiểu biết đầy đủ và có hệ thống của VTN. Họ có nhu cầu lớn về nhận thông tin liên quan ở lứa tuổi này (theo dự án VIE/97/P11 thì con số này là 40%, còn theo dự án VIE/98/P12 thì đã lớn hơn 70%.

Có thể nói, vấn đề SKSS vị thành niên là vấn đề có ý nghĩa về cả kinh tế - xã hội và nhân văn sâu sắc. Nó thu hút sự quan tâm nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và nhiều tổ chức phi chính phủ. Riêng quỹ dân số liên hợp quốc đã và đang phát động một chương trình quốc tế rộng rãi lấy tên là "sức khỏe sinh sản cho mọi người" đến năm 2015.

Tại các nước phát triển, các chính sách dân số, SKSS, KHHGĐ, đặc biệt là SKSS VTN đã được tiến hành rất sớm, từ năm 1960 như Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan... Hệ thống chính sách trên của các nước này được hoàn thiện dần gắn liền với các cuộc vận động xã hội về giáo dục tình dục.

Hiện nay, ở nhiều nước, chủ trương giáo dục về giới, về tình dục, SKSS được đưa vào trường học ở các cấp phổ thông, chuyên nghiệp. Chính quyền các cấp ra chủ trương trên cơ sở chủ trương của chính phủ, các trường tự xây dựng kế hoạch trên cơ sở nhu cầu của học sinh, phụ huynh và tự tìm ra đối tác phối hợp. Ngoài ra là các giải pháp đồng bộ từ phía nhà nước và tư nhân trong các hình thức từ hỗ trợ đào tạo - xã hội chương trình chính khóa trong nhà trường, tới công tác dịch vụ - tư vấn thành mạng lưới rộng khắp qua đường dây nóng (điện thoại), tư vấn trực tiếp, tư vấn cộng đồng, các kênh, giáo dục truyền thông được khai thác nhằm mục đích hướng dẫn hành vi để VTN tự quyết định lựa chọn giải pháp cho chính mình, tuy nhiên điều này cũng tùy từng nền văn hóa.

ở nước ta, nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục giới tính - SKSS VTN những năm gần đây đã được nhà nước và chính phủ quan tâm đáng kể. Nhiều tổ chức Quốc tế (UNPFA), tổ chức phi chính phủ đã đầu tư hỗ trợ cho nước ta nhiều dự án quốc gia, nhiều chương trình đào tạo và thực hành nhằm giảm tỷ lệ dân số, nâng cao chất lượng SKSS VTN. Mặc dù, chương trình giáo dục dân số kế hoạch hóa gia đình của nước ta đã đạt thành tựu đáng kể là hạ tỷ lệ gia tăng, tăng dân số xuống còn 1,7%/năm, nhưng chất lượng nguồn dân số lại đáng lo ngại. Do vậy, hội thảo các nhà hoạch định chính sách về KHHGĐ phải lấy giáo dục SKSS VTN làm điểm đột phát. Và cùng với chương trình quốc tế "về SKSS cho mọi người" dự kiến sẽ đưa nội dung giáo dục về giới tính, về tình dục SKSS VTN vào trường học trên cơ sở nhu cầu của học sinh, của giáo viên, phụ

huynh và xã hội. Vấn đề là chúng ta giáo dục, hướng dẫn nội dung này đi đúng hướng văn minh, văn hóa cao đẹp, tiếp thu cái hiện đại mà giữ vững nét tốt, đẹp của cha ông là rất quan trọng và cũng phải hết sức quan tâm. Theo GS Phạm Song, khi bàn về bản năng con người thì bản năng quan trọng nhất là bản năng tình dục là bản năng sinh tồn hay hủy diệt. Một xã hội nếu không kiểm soát được tình dục theo đúng hướng thì xã hội sẽ đi đến sự tự hủy diệt mình.

Từ phía nhà trường, có thể nói, không ai có thể phủ nhận vai trò của giáo dục học đường trong việc dạy cho các em những kiến thức khoa học, dạy các em từng bước trở thành con người có đầy đủ phẩm chất để hòa nhập cộng đồng và xã hội hiện đại.

tộc

2.1.2. Thái độ của giáo viên, phụ huynh và vị thành viên về truyền thống dân

Kết quả phân tích số liệu cho thấy 82,45% tổng số người được hỏi trả lời rất tự

hào về "truyền thống dân tộc", trong đó 87,75% là học sinh VTN đồng thời cũng là tỷ lệ số người trả lời rất tự hào cao nhất so với tỷ lệ số giáo viên và phụ huynh là 77,15%. Đây là một tiêu chí quan trọng để nhận ra mức độ ảnh hưởng của truyền thống lên cuộc sống của con người hiện đại. Một thông số quan trọng nữa trong kết quả điều tra để khẳng định giá trị truyền thống vẫn còn là niềm tự hào chân chính hối thúc suy nghĩ và hành động của phần lớn người Việt Nam chúng ta, đó là qua câu hỏi thăm dò thái độ ứng xử của người được hỏi về ý thức bảo vệ tổ quốc khi độc lập nhà nước có nguy cơ đe dọa. Có tới 97,56% số người trả lời "sẵn sàng tình nguyện nhập ngũ hoặc động viên con em lên đường nhập ngũ. Số người thờ ơ với vận mệnh tổ quốc chỉ chiếm chưa đầy 3%.

Có thể nói ý thức tự tôn dân tộc và lòng tự hào về những giá trị truyền thống dân tộc đến nay vẫn có ý nghĩa và có giá trị thiêng liêng trong các thế hệ Việt Nam.

Cũng theo số liệu của đợt điều tra có 89,86% học sinh nhận thức sâu sắc về truyền thống "học hành đỗ đạt cao"; 98,77% số người được hỏi bày tỏ lòng mong muốn con cái mình được học hành. Điều đó cho thấy hiếu học, trọng học, khuyến học vẫn là một truyền thống quan trọng của người Việt Nam mặc dù nước ta là một quốc gia đang phát triển với những chỉ số còn rất thấp về mức sống và thu nhập, có tới 86,18% đỗ đạt cao. Từ những kết quả này, chúng tôi có một số nhận định sau: Thứ nhất, truyền thống

trọng học có ý nghĩa đối với VTN trong việc hòa mình vào cuộc sống văn minh hiện đại đòi hỏi phải có sự hiểu biết, kiến thức và động cơ học tập, đỗ đạt cao của VTN có sự khác nhau trong các gia đình có truyền thống khác nhau. Nếu VTN trong gia đình thuần nông động cơ số 1 của việc học tập là thoát ly khỏi đồng ruộng, để không phải lao động chân tay vất vả, thì động cơ số 1 của việc học tập của VTN trong các gia đình có truyền thống lao động tự do (nghề thủ công, kinh doanh có thể, v.v...) là kiếm được nhiều tiền. Còn trong các gia đình có truyền thống học hành thì động cơ số 1 của việc học tập là để có khả năng hòa nhập vào cuộc sống hiện đại, là giữ gìn và phát huy truyền thống hiếu học, trọng học vấn có trong gia đình, dòng họ.

Gắn với truyền thống hiếu học, trọng học là truyền thống "tôn sư, trọng đạo". Kết quả phân tích số liệu điều tra cho thấy tuyệt đại số câu trả lời theo khuynh hướng tích cực 97,89% phụ huynh học sinh muốn tới thăm thầy cô nhân ngày 20-11 trong năm để tỏ lòng ghi ơn công lao thầy cô dạy dỗ con em mình. Có tới 89,48% học sinh VTN được hỏi mong muốn bản thân là cha mẹ tới thăm thầy cô nhân ngày 20-11 và ngày tết cổ truyền; có tới 31,12% số người được hỏi đến thăm thầy cô giáo trên 2 lần trong một năm. Truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn là một giá trị truyền thống đang chi phối giá trị cuộc sống của con người Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế, đã có những biểu hiện lệch lạc của một bộ phận phụ huynh VTN tới "thăm" thày cô với động cơ không lành mạnh như: xin điểm cho con cái, bao che khuyết điểm khi con cái vi phạm ở trường lớp v.v..., thậm chí có phụ huynh học sinh vì nhẹ dạ, quá nghe con đã có hành vi xâm phạm thô bạo danh dự và thân thể thầy cô giáo. Những hành vi xấu xa đó đã bị dư luận xã hội, báo chí lên án và truyền thống tôn sư trọng đạo không bao giờ cho phép bất cứ ai có hành vi tương tự như vậy đối với thầy cô. Còn về phía người thầy, để xứng đáng với vị thế xã hội cao quý đó cần biết lấy "học sinh làm trung tâm", đó mới là nền tảng bền vững của quan hệ thầy - trò và truyền thống tôn sư trọng đạo.

Một biểu hiện tích cực của truyền thống cộng đồng được nhiều người Việt Nam ngày nay vẫn quan tâm đó là đánh giá về quan hệ gia đình và ảnh hưởng tích cực của truyền thống gia đình tới định hướng giá trị của VTN. Kết quả điều tra cho thấy trong 10 tiêu chí đưa ra có 85,1% đã xếp tiêu chí "cuộc sống gia đình ổn định" vào vị trí số 1. Và đánh giá các hình thức ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến định hướng giá trị của

VTN được biểu thị "gia đình có nề nếp, cư xử đúng mực" chiếm 82,33% ở tuổi VTN; 84,23% ý kiến ở giáo viên và 89,2% ý kiến ở cha mẹ học sinh. Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình thông qua hình thức "uốn nắn những hành vi sai trái" một cách thường xuyên là có ý nghĩa hơn cả chiếm tỷ lệ bình quân 85,23%. Hình thức ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến, định hướng giá trị của VTN "thông qua việc làm và lối sống gương mẫu' của cha mẹ và người lớn trong gia đình cũng rất nổi bật, chiếm 79,90%...

Đối với quan hệ cộng đồng láng giềng, truyền thống nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn (thiên tai, hỏa hoạn, cơ nhỡ, bà mẹ chiến sĩ neo đơn vẫn là khuynh hướng chủ đạo, chiếm 90,18%...

Tuy nhiên, cuộc sống theo cơ chế thị trường thời mở cửa cũng có không ít những tác động làm biến đổi những giá trị truyền thống. Theo số liệu điều tra trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07-02 "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay" của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tìm hiểu mục đích của sinh viên cho thấy 92,8% trả lời rằng "phấn đấu để có được địa vị xã hội là mục đích xếp thứ nhất; xếp thứ hai trong bảng giá trị là làm giàu (87,2%), trong khi đó mục đích phấn đầu để thành đạt thật sự trong chuyên môn của mình đứng ở vị trí gần cuối bảng vốn tỷ lệ 62,8%. Những con số trên đây cho ta thấy lớp trẻ ngày nay đang muốn tự tin khẳng định bản thân, đề cao giá trị cá nhân. Song một điều cũng cần thấy rõ xu hướng cá nhân hóa đang có nguy cơ ảnh hưởng tư tưởng, đạo đức, lối sống của lớp trẻ dẫn đến những con người vị kỷ, thiếu trách nhiệm với gia đình, cộng đồng xã hội và luôn chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân, đồng thời trong đó cũng có một lớp người thiếu năng lực chuyên môn, tốt nghiệp đại học vẫn thất nghiệp trong đó xã hội vẫn thiếu người tài cho nhiều lĩnh vực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong một phạm vi khuôn khổ kinh phí có hạn của đề tài, kết quả điều tra xã hội học không thể phản ánh đầy đủ hiện trạng về mối quan hệ giữa truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là những cơ sở khoa học đáng tin cậy với những thông tin được lượng hóa. Có thể đánh giá tổng quát mặc dù tình hình kinh tế - xã hội đã và đang diễn ra có nhiều biến đổi sâu sắc, về cơ bản, những giá trị truyền thống

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/04/2022