Lấy Mẫu Kiểm Toán Và Các Thủ Tục Lựa Chọn Khác

(vòng)


Số dưcác khoản phải

thu bình quân

Số dư các khoản phải thu ĐK+ Số dư các khoản phải thu CK

=

2


Trong đó:

Số vòng thu hồi nợ thể hiện số vòng thu hồi nợ trong một niên độ, có nghĩa là số dư nợ khách hàng thu được vào quỹ mấy lần. Số vòng thu hồi nợ càng nhiều, thời gian thu hồi nợ càng rút ngắn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.


Số ngày 1 vòng thu hồi nợ =

Kiểm toán căn bản - 18


*)Số vòng luân chuyển hàng tồn kho

360

Số vòng thu hồi nợ


Số vòng luân chuyển = hàng tồn kho

Giá vốn hàng bán

Số dư hàng tồn kho bình quân

Một vòng luân chuyển hàng hóa được tính từ lúc xuất tiền mua hàng cho đến khi bán hàng được thu tiền. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cho biết mỗi năm hàng hóa được luân chuyển mấy lần. Số vòng luân chuyển càng nhiều, thời gian luân chuyển hàng thành tiền càng ngắn.


Số ngày luân chuyển = hàng tồn kho

360

Số vòng luân chuyển hàng tồn kho

Số ngày luân chuyển hàng tồn kho cho biết để hàng hóa luân chuyển mất 1 vòng thì cần bao nhiêu ngày.

+)Nhóm 2: Tỷ suất khả năng sinh lời Nhóm này gồm có những tỷ suất sau:

*)Tỷ suất khả năng sinh lời tài sản.


Tỷ suất khả năng sinh lời =

tài sản

Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi Tổng giá trị tài sản bình quân

Tỷ suất này cho biết nếu doanh nghiệp bỏ ra một đồng tài sản thì đem lại bao nhiêu lợi nhuận.

Do tài sản của doanh nghiệp được đầu tư từ hai nguồn: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả (nguồn vốn vay) nên chi phí lãi vay phải được cộng vào lợi nhuận trước thuế để tính.

*)Tỷ suất hiệu quả kinh doanh


Tỷ suất =

hiệu quả kinh doanh


Lợi nhuận trước thuế Tổng doanh thu thuần bán hàng

Tỷ suất này cho biết trong một đồng doanh thu thuần tạo ra mang lại bao nhiêu tiền lãi cho doanh nghiệp.

Để đánh giá tỷ suất này, ngoài việc so sánh giữa các năm hoặc so sánh tỷ suất với dự kiến, nhằm thấy rò chất lượng và xu hương phát triển của doanh nghiệp, kiểm toán viên còn xét đến tính chất ngành nghề kinh doanh đang hoạt động.

+)Nhóm 3: Nhóm tỷ suất cấu trúc tài chính

Thông qua nhóm tỷ suất này, kiểm toán viên xem xét những khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đương đầu, để từ đó xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp.

*)Tỷ suất đầu tư


Tỷ suất đầu tư

Tài sản dài hạn

=

Tổng tài sản


Tỷ suất này dùng để đánh giá năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá trình độ trang bị máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất.

Tỷ suất này càng lớn chứng tỏ tầm quan trọng của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Cũng cần lưu ý tỷ số này không bao giờ bằng 1 bởi tổng tài sản = tài sản ngắn hạn + tài sản dài hạn, chính vì vậy tử số luôn luôn mẫu số.

Thông thường tỷ suất đầu tư được coi là hợp lý tùy từng ngành.

Ví dụ: Công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí: khoảng 90% tổng tài sản.

Công nghiệp luyện kim: 70% tổng tài sản.

*)Tỷ suất nợ


Hoặc:


Tỷ suất Nợ


Tỷ suất tài trợ

Tổng số nợ phải trả


Tổn

=

g nguồn vốn

Nguồn vốn chủ sở hữu

Tổ

=

ng nguồn vốn

= 1- Tỷ suất Nợ

Tỷ suất tài trợ phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ (ngân hàng, chủ đầu tư, các doanh nghiệp khác) hoặc tỷ suất nợ phản ánh những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp đương đầu. Tỷ suất tài trợ càng lớn, chứng tỏ nguồn vốn sở hữu nhiều, doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn tự có, không lo lắng về việc thanh toán nợ và lãi vay.

*)Tỷ suất tự tài trợ

T

=

Tỷ suất tự tài trợ Nguồn vốn chủ sở hữu

ài sản dài hạn


Tỷ suất này cho biết doanh nghiệp bỏ ra bao nhiêu nguồn vốn chủ sở hữu để hình thành nên tài sản cố định. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính tốt thì doanh nghiệp càng có nhiều tiền để đầu tư vào tài sản cố định. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nếu doanh nghiệp tập trung vào đầu tư tài sản cố định thì sẽ bất lợi bởi lợi nhuận chủ yếu được sinh ra từ tài sản lưu động.

*)Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay

Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay

Lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh

=

Chi phí lãi vay

Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay cho biết, liệu lợi nhuận sinh ra từ hoạt động kinh doanh có đủ khả năng thanh toán lãi vay.

2/Đối chiếu logic

Là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có liên hệ với nhau theo một xu hướng nhất định hoặc theo một tỷ lệ nhất định, song có thể có những biến động khác nhau theo hướng khác nhau.

Ví dụ: Hàng tồn kho giảm dẫn đến vốn bằng tiền tăng, phải thu tăng.

Tài sản cố định tăng dẫn đến vay dài hạn ngân hàng tăng, chi phí xây dựng cơ bản dở dang tăng.

Qua cách đối chiếu này, ta có thể phát hiện được mâu thuẫn trong việc so sánh giữa các chỉ tiêu nhau.

Yêu cầu của đối chiếu logic: Là việc kiểm toán viên phải sử dụng các thủ tục kiểm toán tất yếu và cần thiết để tìm ra những điểm không hợp lý của mối quan hệ tất yếu, từ đó phát hiện chênh lệch và những nguyên nhân của chúng, phục vụ cho việc thu thập bằng chứng kiểm toán.

Ví dụ:

-Khi tiền giảm đi đáng kể thì các khoản mục tương ứng cũng phải có những biến động phù hợp. Cụ thể như sau:

+ Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ có thể tăng lên do công ty xuất tiền mua chúng.

+ Các khoản phải trả giảm đi như phải trả công nhân viên, phải trả người bán, vay ngắn hạn…

+ Tiền giảm do mua sắm tài sản cố định hoặc đầu tư xây dựng cơ bản.

- Ngược lại, nếu hàng hóa, thành phẩm… giảm thì cũng có nghĩa với việc tiền và các khoản phải thu của doanh nghiệp tăng. Như vậy, xu hương biến động của hàng tồn kho và các khoản mục liên quan (tiền, chi phí sản xuất…) là ngược nhau. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mức biến động có thể không đồng nhất trên từng khoản mục do số lượng, đơn giá là khác nhau song tất nhiên phải ở một mức có thể chấp nhận được.

- Một trường hợp khác đó là nếu tài sản cố định của đơn vị tăng lên thì có thể là do:

+ Doanh nghiệp vay dài hạn để mua sắm.

+ Chi phí xây dựng cơ bản giảm do tài sản cố định hoàn thành kết chuyển chi phí.

+ Nhận vốn góp liên doanh bằng tài sản cố định.

Như vậy, phương pháp đối chiếu logic sẽ giúp kiểm toán viên phát hiện nhanh chóng các hành vi sai phạm trong mối quan hệ kinh tế-tài chính thuộc đối tượng kiểm toán để trên cơ sở đó định hướng cho từng khoản mục, nghiệp vụ cụ thể.

Để thực hiện được hai phương pháp đối chiếu trực tiếp và đối chiếu logic thì kiểm toán viên phải rà soát, soát xét, đối chiếu lại số liệu. Tuy nhiên, hai phương pháp trên chỉ có tác dụng khi kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm cơ bản. Thử nghiệm cơ bản là loại thử nghiệm được dùng để thu thập bằng chứng về mức độ trung thực, hợp lý của số liệu kế toán. Thử nghiệm cơ bản bao gồm hai loại:

*)Phân tích tổng quát: thủ tục này được kiểm toán viên áp dụng nhằm có cái nhìn tổng quan về báo cáo tài chính của đơn vị dựa trên kỹ thuật phân tích tỷ lệ, các mối quan hệ tài chính để xác định những tính chất hay những sai lệch không bình thường.

Ví dụ: Nếu tỷ lệ thành phẩm trên tổng hàng tồn kho của năm này so với năm trước tăng hoặc giảm mạnh thì kiểm toán viên cần phải lưu tâm. Sự thay đổi này có thể là do chất lượng hàng kém, khách hàng đặt hàng nhưng chưa nhận về, hoặc có thể là một hành vi gian lận nhằm làm giảm chi phí giá vốn.

Để quá trình phân tích đạt hiệu quả thì kiểm toán viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng hoạt động của công ty thông qua thử nghiệm kiểm soát như phỏng vấn nhân viên bán hàng, thủ kho…

Thủ tục phân tích có thể có hiệu lực trong việc nhận dạng các sai sót của báo cáo tài chính và nó được áp dụng cả ba giai đoạn của quá trình kiểm toán.

*)Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư tài khoản: Thủ tục này giúp kiểm toán viên tìm ra các bằng chứng kiểm toán để chứng minh cho những nghi ngờ ở thủ tục phân tích.

Thủ tục này gồm có hai loại:

- Kiểm tra nghiệp vụ: Là việc chọn mẫu hay kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để xem xét độ chính xác của số dư. Nó thường được thực hiện đối với các

khoản mục mang tính trọng yếu như vay dài hạn, vay ngắn hạn… hoặc trong các trường hợp bất thường.

- Kiểm tra số dư: Là sự kiểm tra để đánh giá về độ chính xác của các số dư.

Tuy nhiên, trên thực tế thủ tục kiểm tra nghiệp vụ và số dư tài khoản sẽ không hiệu quả nếu quy mô hoạt động và khối lượng giao dịch ngày càng tăng. Bởi vậy, kiểm toán viên thường không kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ và số dư mà chỉ tiến hành dựa trên chọn mẫu một số nghiệp vụ cùng loại.

4.1.3. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ

Việc áp dụng phương pháp kiểm toán nhằm thu thập các bằng chứng đầy đủ và thích hợp làm cơ sở cho ý kiến đánh giá của kiểm toán viên. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tài chính là một hoạt động phức tạp, ngoài những thông tin được phản ánh trên sổ sách kế toán được kiểm tra bằng phương pháp kiểm toán chứng từ, thì còn có những thông tin chưa được phản ánh trên sổ sách kế toán. Đối với loại thông tin này, kiểm toán viên sử dụng phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ.

4.1.3.1. Khái niệm

Là phương pháp kiểm toán được thiết lập để thu thập bằng chứng kiểm toán không dựa vào thông tin hoặc tài liệu kế toán.

4.1.3.2. Phân loại:Bao gồm ba phương pháp sau:

1/Phương pháp kiểm kê

Kiểm kê là phương pháp kiểm đếm tại chỗ số vật tư, tài sản, tiền vốn hiện có để nhằm đối chiếu với các số liệu phản ánh trên sổ sách qua đó nhằm xác minh sự ghi chép của kế toán đúng với số thực có của tài sản.

Ví dụ: Kiểm toán viên kiểm kê tiền mặt tồn quỹ tại doanh nghiệp, xem xét có sự sai lệch so với số tồn cuối kỳ ở sổ quỹ và sổ cái không. Nếu có chênh lệch thì nguyên nhân vì sao và cách xử lý chênh lệch đó.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kết quả kiểm kê

+Yếu tố thời gian

Trong thực tế, trước khi quy trình kiểm toán được tiến hành thì các khách thể kiểm toán đã tiến hành kiểm kê để có thể xóa đi những dấu vết vết về hành vi gian lận và sai sót nhằm điều chỉnh số liệu từ thực tế khớp đúng với trên sổ sách kế toán. Khi đó, rủi ro kiểm toán sẽ lớn và đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra sự khác biệt về các mong muốn, mục tiêu giữa kiểm toán viên và những đối tượng quan tâm (chủ công ty, các nhà đầu tư, ngân hàng…). Điều này đã đặt ra cho các kiểm toán viên thách thức đó là tiến hành kiểm kê trong thời gian nào để có thể loại trừ mọi ảnh hưởng xấu đến kết quả kiểm kê.

Kinh nghiệm và trình độ thể hiện khả năng phán đoán của kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng trong thường hợp này. Tùy thuộc vào mục tiêu của từng cuộc kiểm

toán, đối tượng kiểm toán và khách thể kiểm toán mà kiểm toán viên lựa chọn thời điểm kiểm tra phù hợp.

Có thể tiến hành theo một trong các thời điểm sau:

*)Kiểm kê thường xuyên.

*)Kiểm kê định kỳ.

*)Kiểm kê bất thường (đột xuất).

+ Yếu tố về không gian

Kiểm toán viên cần xác định phạm vi kiểm toán phù hợp cho từng cuộc kiểm toán. Có những trường hợp kiểm toán viên phải kiểm tra toàn bộ, xuyên suốt nhưng cũng có những trường hợp không cần thiết và sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí.

Để lựa chọn loại hình kiểm kê phù hợp, một điều tất yếu đó là kiểm toán viên phải am hiểu về tính chất các loại vật tư, đặc tính kỹ thuật, số lượng và giá trị tài sản cần kiểm kê…

Có hai loại hình kiểm kê sau:

*)Tổng kiểm kê hay kiểm kê toàn diện

*)Kiểm kê điển hình hay kiểm kê chọn mẫu

Trong phương pháp này, kiểm toán viên phải tham gia trực tiếp vào cuộc kiểm kê để xác nhận về chất lượng, số lượng cũng như tình trạng tài sản có đúng như bảng kê khai và xác nhận tình trạng tài sản đó.

Do tính ưu việt của phương pháp này, nó thường được áp dụng cho tiền mặt, tín phiếu, hàng hóa, nguyên vật liệu, tài sản cố định…

Trong quá trình kiểm kê, kiểm toán viên cũng cần lưu tâm:

*)Phương tiện cân, đo, đong, đếm.

*)Chứng từ kiểm kê: phiếu kiểm kê.

*)Biên bản kiểm kê: trình bày số lượng kiểm kê, số lượng trên sổ sách, mức chênh lệch, nguyên nhân và cách xử lý.

Những chứng từ này được lưu trong hồ sơ kiểm toán.

2/ Phương pháp điều tra

-Điều tra là phương pháp kiểm toán mà theo đó bằng những cách thức khác nhau kiểm toán viên tiếp cận đối tượng kiểm toán nhằm tìm hiểu, thu nhận những thông tin cần thiết để đánh giá và xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng rồi đi đến những đánh giá, nhận xét hay kết luận kiểm toán. Phương pháp này được sử dụng phổ biến để:

+Tìm hiểu khách hàng (đối với kiểm toán độc lập), khách thể kiểm toán (đối với kiểm toán Nhà nước).

+Điều tra cần kết hợp với các kỹ thuật: dự đoán, dự báo cụ thể.

- Các phương pháp điều tra

Tùy theo yếu cầu của từng cuộc kiểm toán và đặc điểm của từng đối tượng kiểm toán, kiểm toán viên có thể sử dụng các phương pháp điều tra sau:

+Điều tra trực tiếp.

Kiểm toán viên gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với các nhân viên bên trong đơn vị như: thủ quỹ, nhân viên kế toán, thủ kho và các đối tượng khác có liên quan…Theo cách này, kiểm toán viên thu thập những thông tin khách quan, chi tiết và có độ tin cậy cao. Tuy nhiên, nó cũng có một số hạn chế nhất định như cảm giác không thoải mái, trung thực của các đối tượng được phỏng vấn.

+Điều tra gián tiếp

Nếu nhận thấy nhân viên không thoải mái và thiếu trung thực khi trả lời các câu hỏi, kiểm toán viên có thể sử dụng các bảng, phiếu câu hỏi sẵn có chứa đựng các thông tin cần quan tâm.

Ví dụ: Bảng câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ về khoản mục hàng tồn

kho:


*)Công ty có mở sổ chi tiết theo dòi từng loại nguyên vật liệu không.

*)Ghi nhận hàng tồn kho có theo giá gốc không.

*)Kế toán kho có kiêm nhiệm thủ kho không.

Yêu cầu quan trọng đối với phương pháp này đó là kiểm toán viên phải xây dựng

được những câu hỏi bao quát nội dung quan tâm, sau đó nên xem xét phát bảng hay phiếu câu hỏi cho từng đối tượng để có thể thu thập thông tin được thuận lợi.

-Cách thức tiến hành

Do việc thực hiện điều tra đơn giản, hiệu quả mang lại cao nên phương pháp này được thực hiện phổ biến. Cách thức tiến hành như sau:

+Tiếp cận với các bên có liên quan, dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm và tích luỹ dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng, xác minh cho những nội dung kiểm toán cụ thể và thẩm định lại các thông tin bổ sung cho các dữ liệu đã có.

+Chọn mẫu các nghiệp vụ có dấu hiệu sai phạm, xác minh làm rò các vấn đề.

+Tìm hiểu khách thể kiểm toán hay làm quen với khách hàng, coi như bước khảo sát điều tra sơ bộ để đưa ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận thư hẹn kiểm toán của khách hàng (đối với kiểm toán độc lập) hoặc lập kế hoạch kiểm toán (đối với kiểm toán Nhà nước).

Trong thực tế, khi tiến hành điều tra để đảm bảo tính hữu ích cao nhất cho kết luận kiểm toán, kiểm toán viên thường vận dụng thêm các kỹ thuật về dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hay chọn mẫu điển hình và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan.

3/ Phương pháp thực nghiệm

- Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tái diễn các hoạt động hay nghiệp vụ để xác minh lại kết quả của một quá trình, một sự việc đã qua, hoặc sử dụng các thủ pháp kỹ thuật nghiệp vụ để tiến hành các phép thử nhằm xác định một cách khách quan chất lượng công việc, mức độ chi phí phù hợp.

Phương pháp thực nghiệm còn được gọi là phương pháp “làm lại

Ví dụ: Sản xuất thử một lô hàng do nghi ngờ về chi phí sản xuất: Vật tư, lao động

...không hợp lý, chúng ta kiểm tra lại.

- Yêu cầu đối với việc thực hiện phương pháp thực nghiệm

+ Khi thực hiện phương pháp này, điều mà các kiểm toán viên quan tâm là phải khẳng định được biên độ tin cậy của kết quả các quá trình đã diễn ra, các tài sản đã tồn tại ...thông qua việc thử lại các yếu tố cấu thành nên sự tồn tại của tài sản đó hay các giai đoạn hình thành nên quá trình đó. Nếu cần có thể sử dụng cả những cách thức, kỹ thuật trong khoa học hoá nghiệm hay các kỹ thuật khác để khẳng định một vụ việc trước khi đưa ra những kết luận kiểm toán.

Ví dụ: Khi muốn xác định lại độ tin cậy của các khoản mục trên tờ phiếu tính giá thành của một sản phẩm, kiểm toán viên cho tiến hành lại việc sản xuất ra sản phẩm đó để xác định cụ thể từng khoản chi phí như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Theo đó phát hiện xem có sự mâu thuẫn với số liệu trên sổ sách hay không rồi thiết kế các thử nghiệm kiểm soát, thử nghiệm cơ bản cần thiết tiếp theo.

+ Kết quả của phương pháp thực nghiệm thường rất trung thực, cho nên nó được sử dụng phổ biến trong kiểm toán. Tuy nhiên chi phí cho việc thử nghiệm khá tốn kém, hơn nữa kiểm toán viên phải vận dụng cả những kỹ thuật của chuyên ngành khác như phải thuê chuyên gia, giám định ...trong các lĩnh vực hoá học, cơ lý học, xây dựng

...

4.2. Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác

4.2.1. Sự cần thiết của lấy mẫu kiểm toán

Để làm căn cứ cho việc đưa các ý kiến trên báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán có hiệu lực. Trong khi đó, đối tượng của kiểm toán mà chủ yếu và quan trọng nhất là thực trạng hoạt động tài chính kế toán bao gồm những nghiệp vụ cụ thể, những tài sản cụ thể, những chứng từ cụ thể và thường được biểu hiện bằng số tiền xác định. Số lượng các nghiệp vụ, tài sản hay chứng từ đó lại bao gồm những quần thể với số lượng lớn các phần tử cụ thể. Với số lượng rộng lớn như vậy thì kiểm toán viên không thể kiểm toán tất cả được cũng như không thể soát xét và đối chiếu tất cả các chứng từ kế toán, các số dư của tài khoản được. Điều này đặt ra một vấn đề làm thế nào để có được một chương trình kiểm toán nhằm đạt được mục tiêu trên một cách hiệu quả.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí