Trước Khi Lâm Vào Tình Trạng Khủng Hoảng Và Sụp Đổ

Câu 29. Có thể chấp nhận mức độ không chắc chắn của bằng chứng kiểm toán thu được vì:


luận

A. Trong kiểm toán chỉ cần thu thập những bằng chứng kiểm toán có tính kết


B. Có thể kết hợp bằng chứng kiểm toán từ nhiều nguồn khác nhau

C. Chi phí kiểm tra tất cả các khoản mục, đặc biệt là kiểm tra các nghiệp vụ

thường xuyên nói chung không kinh tế

D. Cả B và C đều đúng

Câu 30. Sai phạm về giá trị tài sản trong bảng cân đối kế toán được quy định là không trọng yếu khi:

A. Dưới 1%

B. Dưới 5% C. Từ 5-15% D. Từ 15-20%

III. BÀI TẬP

Câu 1.Trong quá trình kiểm toán tại công ty TNHH HoàngHà, kiểm toán viên phát hiện một số nghiệp vụ ghi sổ trong năm N như sau:(Đơn vị: 1000đ)

STT

Nội dung kinh tế

Kế toán định khoản

1

Ngày 01/2 nhập kho nguyên vật liệu đang đi đường tháng trước, trị giá nguyên vật liệu theo giá chưa thuế GTGT là 60.000, thuế suất thuế GTGT 10%, tiền mua nguyên vật liệu chưa thanh toán cho người

bán.

Nợ TK 152: 60.000

Nợ TK 133: 6.000

Có TK 331: 63.000

2

Ngày 06/02 mua một máy móc thiết bị cho bộ phận sản xuất theo giá mua chưa thuế GTGT 410.000, thuế suất thuế GTGT 10%. Đã thanh toán cho người bán bằng chuyển khoản.

Biết tài sản này được đầu tư từ quỹ đầu tư phát

triển.

Nợ TK 2411: 410.000

Nợ TK 133: 41.000

Có TK 112: 451.000

3

Ngày 23/02 xuất kho 2.000 sản phẩm chuyển bán cho công ty cổ phần Tiến Đạt, đơn giá xuất kho 45/sản phẩm, giá bán chưa thuế GTGT là 50/sản phẩm, thuế suất thuế GTGT là 10%. Chi phí chuyển hàng theo hợp đồng doanh nghiệp phải chịu theo tổng giá thanh toán là 4.400 (đã bao gồm thuế

GTGT là 400), đã chi bằng tiền mặt.

Nợ TK 157: 90.000

Có TK 156: 90.000

4

Ngày 25/02 thanh lý một thiết bị sản xuất, nguyên

Nợ TK 214: 200.000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Kiểm toán căn bản - 16



giá 250.000, giá trị hao mòn lũy kế 200.000. Phế

Nợ TK 811: 50.000

liệu bán thu hồi bằng tiền mặt là 16.800 (giá bao

Có TK 211: 250.000

gồm cả thuế GTGT biết thuế suất thuế GTGT


5%).Chi phí thanh lý là 1.000, đã chi bằng tiền mặt.


Yêu cầu.Anh (chị) hãyphát hiện các sai phạm có thể có trong các nghiệp vụ và điều chỉnh theo chế độ kế toán hiện hành. Nêu cơ sở dẫn liệu bị ảnh hưởng của các khoản mục liên quan?

Câu 2.Khi lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải hiểu rủi ro kiểm toán và các loại rủi ro cấu thành nên rủi ro kiểm toán.

Yêu cầu: Trong mỗi tình huống dưới đây, cho biết loại rủi ro tương ứng. Trong

các rủi ro kể ra, có loại được sử dụng một lần hoặc nhiều hơn một lần, hoặc không sử dụng. Các loại rủi ro:

A. Rủi ro kiểm soát

B. Rủi ro phát hiện

C. Rủi ro tiềm tàng Các tình huống:

1. Khách hàng không phát hiện được gian lận của nhân viên kịp thời vì tài khoản tiền gửi ngân hàng không được chỉnh hợp hàng tháng.

2. Tiền dễ bị đánh cắp hơn.

3. Thư xác nhận các khoản phải thu của kiểm toán viên không phát hiện được các sai sót trọng yếu.

4. Các khoản chi quỹ không được xét duyệt đúng.

5. Không thực hiện sự phân công phân nhiệm đầy đủ.

6. Thiếu các thử nghiệm cơ bản cần thiết.

7. Sự phát triển khoa học kỹ thuật làm cho sản phẩm chính của doanh nghiệp có khả năng bị lỗi thời.

8. Kiểm toán viên chọn mẫu không đại diện cho tổng thể nên đưa ra kết luận rằng khoản mục không có sai sót trọng yếu trong khi thực tế có sai sót trọng yếu.

Câu 3.Tại công ty TNHH sản xuất Nam Hải có các thủ tục h oạt động được mô tả như sau:

1. Khi đăṭ hàng mua nguyên vâṭ liêu

, môt

bản sao của đơn đăṭ hàng đươc

̉ i cho

bô ̣phân

nhân

hàng . Khi nhân

hàng , nhân viên bô ̣phân

nhân

hàng sẽ ghi số thưc

nhân

vào bản sao đơn đặt hàng và gửi về bộ phận kế to án để ghi Có tài khoản nợ phải trả và

Nơ ̣ tài khoản mua hàng. Vâṭ liêu

sau đó sẽ đươc

nhâp

vào kho.

2. Các thẻ bấm giờ của nhân viên sẽ được gửi tới phòng vi tính để chuẩn bị bảng lương, séc trả lương và bảng phân bổ chi phí tiền lương . Séc trả lương sẽ được đính kèm bảng lương để trình lên một người trong ban lãnh đạo công ty đối chiếu nhau và

ký duyệt. Sau đó séc này sẽ đươc lương cho nhân viên.

trả về cho người phu ̣trách bô ̣phân

máy tính để phát

3. Môt

chi nhánh bán hàng của công ty bao gồm môt

̉ a hàng trưởng và hai

nhân viên. Chi nhánh đươc

̉ môt

tài khoản giao dic̣ h taị ngân hàng đia

phương . Các

khoản tiền thu của chi nhánh được nộp vào đây . Các sé c rút tiền của chi nhánh này phải có chữ ký của cửa hàng trưởng hoặc giám đốc tài chính của công ty . Sổ phu ̣đươc̣ gử i về cho cử a hàng trưởng . Ông này sẽ đối chiếu sổ sách với sổ phu ̣ . Điṇ h kỳ̉ a

hàng trưởng sẽ lập môt

công ty.

bảng kê các khoản thu chi trong kỳ của chi nhánh và nôp

về

Yêu cầu . Đối với mỗi tình huống kể trên , hãy cho biết điểm yếu của hệ thống kiểm soát nội bộ và các loại gian lận hoặc sai sót có thể xảy ra .

Câu 4.Công ty An Bình đã đầu tư tôn tạo khu di tích Rừng Thiêng. Do chủ trương khuyến khích đầu tư cho ngành du lịch địa phương nên công ty An Bình được miễn tất cả các khoản thuế và vì thế nên không bị bắt buộc phải sử dụng vé vào cửa do cơ quan thuế phát hành.

Trong giờ khu di tích mở cửa, 2 nhân viên sẽ trực ở cửa để thu trực tiếp tiền vào cửa là 5.000đ/người. Theo quy định của công ty, các hướng dẫn viên du lịch có thẻ hành nghề của Sở du lịch được miễn tiền vào cửa.

Vào cuối ngày, 1 trong 2 nhân viên thu tiền sẽ mang tiền nộp cho ông Ngà, cán bộ quản lý khu di tích. Ông Ngà kiểm tra số tiền và cất vào két sắt. Thứ 6 hàng tuần, ông Ngà và 1 nhân viên mang tiền đi nộp vào Ngân hàng và gởi bảng kê nộp tiền về công ty.

Sau 1 năm hoạt động, giám đốc công ty An Bình nhận thấy khu di tích không mang lại hiệu quả kinh tế như mong đợi do thu nhập thấp hơn so với chi phí. Một trong những vấn đề được giám đốc đặt ra là phải cải tiến kiểm soát nội bộ đối với khâu thu tiền.

Yêu cầu: Hãy lập bảng liêṭ kê những hành vi gian lân và sai sót có thể xaỷ ra

đồng thời nêu ra các kiến nghi ̣để ngăn chăn

Câu 5.Tình huống sau:

các hành vi đó .

Sự sụp đổ của tập đoàn năng lượng Enron kéo theo sự sụp đổ của Arthur Andersen

1. Trước khi lâm vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ

Thành lập năm 1985, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và Internorth of Omaha, cái tên Enteron (ruột) xuất phát từ ý tưởng cho rằng đó là bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa, Enron nhanh chóng trở thành một công ty đa quốc gia hùng mạnh trong lĩnh vực năng lượng sau thời gian ngắn 15 năm. Enron đã bắt đầu từ con số không để trở thành công ty lớn thứ bảy của Hoa Kỳ và có lúc là công ty năng lượng nổi tiếng hàng đầu thế giới. Công ty có hoạt động ở hơn 30 quốc

gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Họ sử dụng hơn 21 nghìn nhân viên và hiện diện ở hơn 40 nước trên toàn thế giới, trong đó có 7.500 nhân viên làm việc tại tòa nhà 50 tầng ở trung tâm Houston. Một công ty chuyên về hơi đốt thiên nhiên ở Omaha thuộc bang Nebraska (Mỹ) và điều hành 59.200 km đường ống.

Năm 1989, Enron bắt đầu kinh doanh các mặt hàng hơi đốt thiên nhiên. Trong nhiều năm, công ty trở thành nhà kinh doanh đường ống và điện năng lớn nhất Bắc Mỹ và Anh Quốc.

Năm 1997, công ty bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động bằng việc sang kinh doanh các sản phẩm than đá, giấy và bột giấy, nhựa, kim loại và viễn thông. Enron thường được xem như là trung tâm của các cuộc cách mạng liên quan đến viễn thông, Internet, sự bãi bỏ kiểm soát về năng lượng, v.v...

Không còn gì nhiều để nói về sự thành công và thất bại đầy tai tiếng của ông trùm năng lượng Enron ở Texas. Cùng với việc sản xuất năng lượng, họ cũng tạo nên một đặc trưng thương hiệu mạnh mẽ. Enron giành được giải thưởng “Công ty Đột phá Nhất nước Mỹ” của tạp chí Fortune sau 6 năm hoạt động, họ cũng được xếp hạng cao trong biểu đồ “Những công ty tốt nhất để làm việc” cũng của tạp chí này. Công ty cũng cổ vũ hình ảnh của một công dân tốt của cộng đồng, ấn hành các báo cáo xã hội và môi trường nhắm vào những hoạt động của công ty với sự cẩn trọng đối với những hệ quả môi trường của công việc, các chính sách chống hối lộ và tham nhũng cùng những mối quan hệ đồng sự.

Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện viễn thông.

Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước dễ dãi nhất về luật kế toán. Hệ thống công ty mẹ-công ty con được thiết kế bởi các chuyên gia tài chính rất tài giỏi, và được bảo đảm bởi một trong năm đại gia ngành kiểm toán của thế giới: Arthur Andersen.

Trong nhiều năm, Enron chứng tỏ họ là một công ty lớn mạnh và có lợi nhuận

cao:

Thành công đáng kể nhất của Enron là trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2000. Trong khoảng thời gian này, giá cổ phiếu của Enron tăng từ dưới 20 USD lên trên 80 USD. Năm 2000, giá trị thị trường của Enron đạt 77 tỉ USD. Lợi nhuận của công ty cũng tăng rất nhanh, từ 20 tỉ USD trong năm 1997 lên thành 101 tỉ USD trong năm 2000, tăng hơn năm lần chỉ trong vòng bốn năm, là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí Fortune, luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với số vốn kinh doanh 63 tỷ USD.

Từ năm 1985 đến cuối năm 2001, giá cổ phiếu của công ty liên tục tăng lên. Cao điểm là vào tháng 10/2001, giá cổ phiếu của công ty đã tăng hơn gấp đôi trong vòng chỉ một năm.

Trên con đường phát triển và mở rộng lĩnh vực hoạt động, việc kinh doanh của Enron ngày càng mang thêm nhiều rủi ro. Trong việc kinh doanh vận chuyển qua hệ thống đường ống, cả lượng và giá đều ổn định. Nhưng trong lĩnh vực buôn bán khí đốt và xăng dầu, giá cả dao động rất mạnh đồng thời số lượng cũng giao động do sức ép cạnh tranh.

Enron lớn đến mức không ai tin nó có thể sụp đổ. Vậy tại sao Enron, một công ty năng lượng lớn nhất nước Mỹ, đứng thứ bảy trong số các công ty lớn nhất của Mỹ, lại rơi vào tình trạng khủng hoảng và phá sản nhanh đến thế.

2. Khủng hoảng và sụp đổ

Ngày 10/1, Tòa Bạch Ốc chính thức thông báo lãnh đạo tập đoàn Enron, ông Kenneth Lay, đã từng liên hệ với giới chức cao cấp của chính quyền Bush, trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans để tìm kiếm sự giúp đỡ, xin chính phủ can thiệp tài chính để thoát khỏi bờ vực phá sản, nhưng đều bị hai Bộ Trưởng từ chối. Lúc đó, ông O'neil đã không thông báo cho Thủ Tướng Bush về cuộc khủng hoảng của Enron và chính quyền cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của Enron.

Đến tháng 10-2001, Ủy ban Chứng khoán Mỹ đã điều tra sổ sách kế toán của Enron và sự thật mới bắt đầu hé lộ.

Tập đoàn Arthur Andersen chịu trách nhiệm kiểm toán, lưu giữ chi tiết các hoạt động tài chính của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ "một số lượng đáng kể nhưng không xác định được" những tài liệu nói về sai phạm tài chính ở Enron. Các công tố viên cho biết số lượng tài liệu liên quan bị hủy bỏ có thể lên đến hàng ngàn.

Nhiều nhà phân tích tài chính liên tục đánh giá cao công ty này, cho đến sát thời điểm nó sụp đổ. Theo chuyên san tài chính Bloomberg Markets, đến trung tuần tháng 10/2001, vẫn có ít nhất 6 nhà phân tích nổi tiếng ở Wall Street tiếp tục khuyên nên mua cổ phiếu Enron.

Ngày 26/10/2001, công ty lần đầu tiên thừa nhận đã lỗ hàng trăm triệu USD trong một quý:

Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ USD. Số nợ 1,2 tỷ USD bị giấu đi đã gây hoảng loạn trên thị trường chứng khoán khi nó bị tiết lộ.

Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá nhân.

Tháng 12 năm 2001,Ủy ban Chứng khoán Mỹ thông báo rằng ủy ban này đã kiện ông Fastow trước một tòa án ở Washington vì không giao nộp các tài liệu liên quan đến các hoạt động tài chính bất minh của Enron và không trình diện ủy ban theo trát đòi ngày 30/10.Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi.

Khi công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng cổ phiếu. Việc trả lương bằng cổ phiếu chẳng những không thể làm cho giám đốc điều hành đặt quyền lợi cổ đông lên trên hết, mà còn gây hậu quả ngược lại – mua lấy sự im lặng của các giám đốc này về tình hình tài chính. Làm cách đó, giá trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng.

Đã có những dự báo trước

*) Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm toán của Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần sau, nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của Enron. Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng khoán) đã xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân viên này bị sa thải ngay sau đó.

*) Cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại: Ngày 15/8/2001, cổ phiếu Enron bắt đầu mất giá, đầu tháng 11 năm 2001, giá cổ phiếu của Enron giảm xuống dưới 10 USD, cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD.

Ngày 9/2002 Hoa Kỳ đã chính thức cho chuyển hồ sơ của tập đoàn Enron sang bộ phận điều tra hình sự. Cuộc điều tra này dự kiến được chỉ thị từ Hoa Thịnh Đốn nhưng sẽ có Công Tố Viên nhiều tiểu bang tham gia. Trước đó, Enron đã trải qua hằng loạt cuộc điều tra dân sự khi nộp đơn xin phá sản lần thứ hai vào tháng 12-2001.

Trong thời điểm này các công tố viên quan tâm đến một yếu tố có khả năng gây chấn động: Bộ Trưởng Tư Pháp John Ashcroft trong ngày 10-1 đã tự rút lui khỏi ban điều tra hình sự của Bộ Tư Pháp về công ty Enron, sau khi thông tin về số tiền 61. 000 Mỹ kim mà Enron đóng góp vào quỹ tranh cử vào Thượng Viện của ông trong năm 2000 được công bố. Toàn bộ văn phòng Tư Pháp tại Houston, cơ quan được chỉ định điều tra vụ Enron, cũng đã rút lui khỏi tiến trình điều tra với lý do "có liên hệ tài chính" với Enron.

Ngày trong tháng 12 năm 2001, công ty tuyên bố phá sản.

3. Phân tích nguyên nhân

Chính sự bí hiểm về tài chính của Enron là cội nguồn cho sự sụp đổ của công ty này. Giới chuyên gia cho rằng, sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá nhiều vào các giao dịch tài chính. Theo các chuyên gia kinh tế, một công ty hoạt động lành mạnh phải công khai tài chính với các đối tác và ngược lại. Thế nhưng, nhiều đối tác của Enron đã không tuân theo các nguyên tắc kế toán khiến họ bất lực trong việc kiểm soát tình hình tài chính.

Do các chi phí kế toán: Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm 2000, Enron Corp trả Arthur Andersen chi phí kiểm toán 25 triệu, chi phí tư vấn và các phí dịch vụ khác lên đến 27 triệu đôla, và tổng số là 52 triệu đôla. Như thế có nghĩa là công ty Enron Corp đã trả Arthur Andersen khoảng 1 triệu đôla/tuần.

Lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẽ hở luật pháp để lập ra các công ty con mà không khai báo tài chính để che giấu việc công ty đã vay quá khả năng chi trả. Bằng cách này, Enron vừa không phải công khai các khoản nợ, vừa che giấu được những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng lợi nhuận của mình và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà Enron phải thông báo chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu USD, những người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu của công ty. Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Kenneth Lay đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Kenneth Lay bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố.

Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành của điều mà nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng lưới chằng chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là Công ty kiểm toán Arthur Andersen đã giúp Enron. Kế toán trưởng của Enron là Richard Causey - người đã thiết kế ra hệ thống lừa dối cổ đông - nguyên là kiểm toán viên của Andersen chuyển sang.

Sự sa thải liên tiếp các lãnh đạo cao cấp của công ty, một số nhân viên và việc dành hàng trăm triệu USD cho các quan chức và nhân viên mua cổ phiếu hay chứng khoán với giá đặc biệt là một nguyên nhân không kém phần quan trọng.

4. Trách nhiệm pháp lý

Khi Enron sụp đổ, nó phá hủy hơn 60 tỷ USD giá trị thị trường. Hàng nghìn người bị mất việc làm và "xóa xổ" tài khoản hưu trí trị giá hàng tỷ USD của các nhân viên.

Những công bố về lợi nhuận của công ty được minh chứng là không có thật, họ có những món nợ khổng lồ không được thể hiện trong sổ sách của công ty.

Bất ngờ hơn vẫn là chuyện của các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến cựu Giám đốc tài chính Andrew Fastow của Enron đã "tỉa" trên 33 triệu USD từ các giao dịch, sau khi chịu sự điều tra đã bị kết án 10 năm tù năm 2004.

Công ty sụp đổ với khoảng nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàng tỷ dollars nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bố phá sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ quyết định điều tra xem có phải các giới chức Enron đã phạm tội lừa đảo trước khi công ty phá sản hay không.

Lật lại hồ sơ, người ta thấy rằng Tổng Thống Georges W. Bush đã nhận được từ Enron và những người liên quan đến công ty hơn 550. 000 dollars - số tuyền hậu thuẩn tài chính lớn nhất. Đổi lại, ông dành cho Enron những ưu đãi đáng kể trong việc làm ăn. Enron và Ken Lay - giám đốc điều hành của Enron, người được ông Bush đặt tên thân mật là "Kenny Boy" - đã quyên góp tiền cho ông Bush từ hai lần ông tranh cử thống đốc bang Texas năm 1994 và 1998 (với tổng số tiền 312. 500 dollrs), đến chiến dịch tranh cử tổng thống và cả tiền cho lễ đăng quang tổng thống hồi đầu năm 2001. Lay nói rằng ông ta ủng hộ ông Bush bởi có quan hệ lâu với gia đình Bush. Thậm chí sự ủng hộ của Lay bắt đầu từ chiến dịch tranh cử tổng thống của Bush cha ít nhất vào năm 1980.

Hàng loạt quan chức của Enron và Andersen hoặc đã vào tù hoặc đang chờ án tù. Những nạn nhân chính là những người mua cổ phiếu. Những người "bên trong" đã nhanh tay bán cổ phiếu trước khi thảm hoạ được phát hiện. Còn hầu hết cổ đông "bên ngoài", cuộc tháo chạy giống như một thảm hoạ. Có những người đã mua cổ phiếu với giá 90 đô la và để nhận được 0,6 đô la sau không đầy một năm.

Enron phá sản mọi sự dính líu về chính trị cũng được phơi bày. Trong đó có những quan hệ gần gũi của công ty này với Nhà Trắng. Enron đã ủng hộ nhiều triệu đô la vào chiến dịch tranh cử năm 2000 của George Bush. Mặc dù cá nhân ông Bush là một người bạn của vị Giám đốc điều hành Kenneth Lay của Enron, ông này mau chóng cách ly với mọi dính líu có thể gây tai tiếng với công ty này.

Tập đoàn Enron còn hậu thuẫn tài chính cho hơn 250 thành viên quốc hội thuộc hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa trong thời gian từ năm 1989 đến 2001. Đứng đầu danh sách nhận tiền của Enron là các Thượng nghị sĩ đại diên bang Texas: Kay Baley Hutchinson 99. 500 dollars, thuộc đảng Cộng Hòa. Bộ trưởng Tư Pháp bang Texas là John Cornyn cũng đã nhận hơn 150. 000 dollars của Enron và của các nhân vật trong tập đoàn này. Ngoài ra, ít nhất 15 giới chức cao cấp trong chính quyền Bush cho đến năm 2000 vẫn còn cổ phần ở tập đoàn Enron, trong đó phải kể đến Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld, cố vấn cao cấp của Tổng Thống là Karl Rove, Thứ trưởng Bộ Ngân Khố Peter Fisher và Đại Diện Thương Mại Mỹ Robert Zoellick (50.000

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí