Những Vấn Đề Đặt Ra Được Tiếp Tục Nghiên Cứu

việc áp dụng Basel tại Singapore, Malaysia, Philipines. Bài viết đề xuất các giải pháp để áp dụng Basel II tại các NHTM Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Nghiên cứu của Loriana Pelizzon và cộng sự (2005) [116] tập trung vào trụ cột 2 của Basel II trong đó mở rộng các công cụ có sẵn để điều tiết khi cần can thiệp vào các ngân hàng, đó là mức độ phù hợp về vốn và yêu cầu về vốn dựa trên rủi ro. Đặc biệt bài viết này tập trung vào vai trò của các quy tắc khi chi phí cho việc vốn hóa là khá cao. Ngân hàng có thể quản lý danh mục đầu tư một cách linh hoạt và tự quyết định về việc vốn hóa và cấu trúc vốn của mình.

Về khía cạnh tính hiệu quả của tỷ lệ vốn bắt buộc trong Basel II sửa đổi (2011), nghiên cứu của Gordon J. Alexander và cộng sự (2012) [109] đã chỉ ra rằng tỷ lệ vốn bắt buộc đưa ra trong Basel II sửa đổi (2011) là đủ tốt, giúp ngân hàng chống đỡ hiệu quả hơn đối với những tổn thất trong giao dịch (Trading Loss) so với Hiệp ước Basel cũ (1996). Trong đó, Basel sửa đổi (2011) mang lại nhiều lợi ích hơn so với Basel cũ (1996) đối với hoạt động quản trị RRTT.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về giám sát thị trường tài chính, thanh tra, giám sát ngân hàng

Các công trình nghiên cứu trong nước

Lê Ngọc Lân và các cộng sự (2012), “Đánh giá hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay” [32] đã thực hiện đánh giá hoạt động thanh tra giám sát của NHNNVN. Công tác thanh tra, giám sát hiện tại chủ yếu nhằm đảm bảo việc chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng của các TCTD (thanh tra tuân thủ). Tuy nhiên, phương pháp thanh tra tuân thủ không còn thích hợp để có thể đảm bảo mục tiêu hoạt động hiệu quả và an toàn của hệ thống ngân hàng do không giúp các thanh tra ngân hàng đánh giá, đo lường một cách đầy đủ và hiệu quả, cũng như đánh giá và đo lường các rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường của TCTD được giám sát. Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tiến hành xây dựng và thực hiện phương pháp đánh giá năng lực tài chính theo các tiêu chí CAMELS (C = Capital (Vốn); A = Assets (Tài sản có); M = Management (Quản lý); E = Earnings (Lợi nhuận); L= Liquidity (Khả năng thanh khoản); S = Sensitivity (Độ nhạy cảm với các RRTT) như là một bước trung chuyển để tiến tới thực hiện phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên rủi ro. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu đổi mới, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, trong đó nổi bật là những hạn chế về cơ cấu tổ chức; phương pháp thanh tra, giám sát ngân

hàng; khung pháp lý đối với hoạt động của thanh tra ngân hàng và chất lượng đội ngũ thanh tra, giám sát.

Lê Xuân Sang (2013),“Tái cơ cấu hệ thống giám sát thị trường tài chính Việt Nam” [67] đã ra chỉ một trong những nguyên nhân dẫn tới bất ổn và khủng hoảng tài chính - tiền tệ xuất phát từ sự giám sát tài chính yếu kém, các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về giám sát trong ngân hàng đã bị coi nhẹ, đặc biệt vẫn chưa áp dụng các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo, kiểm định (như Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng - Early Warning System EWS; Kiểm định khả năng chịu đựng rủi ro của các NHTM trước những cú sốc tài chính, tiền tệ (Stress Test – ST); Giá trị có thể tổn thất (Varlue at Risk - VAR) cho cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính / danh mục đầu tư hầu như chưa được phát triển, áp dụng. Qua đánh giá, tác giả đã đưa ra giải pháp nhằm tái cơ cấu hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, trong đó cần áp dụng rộng rãi chuẩn mực quốc tế và bảo đảm tính thực thi trong áp dụng chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế.

Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Nghiên cứu của Gayani Godellawatta (2007) cũng đưa ra những thách thức đối với các ngân hàng thương mại và cơ quan giám sát trong việc thực hiện Trụ cột 2 của Basel II. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc thực hiện trụ cột 2 của Basel II cần rất nhiều nỗ lực của toàn bộ hệ thống tài chính, cũng như đòi hỏi sự cố gắng và quyết tâm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan. Chính sự khác biệt về mô hình quản lý đặc thù của từng quốc gia đã khiến cho việc áp dụng các nguyên tắc trong thanh tra, giám sát ngân hàng theo trụ cột 2 trở nên khó khăn. Các quốc gia mong muốn rằng việc áp dụng trụ cột 2 sẽ giúp mở rộng và phát triển hệ thống giám sát, thanh tra ngân hàng hiện có chứ không phải là xây dựng lại hoàn toàn một hệ thống thanh tra, giám sát mới.

Nghiên cứu của Elizabeth Roberts (2008) đã chỉ ra những thách thức mà các nền kinh tế mới nổi sẽ gặp phải khi tiến hành áp dụng những nguyên tắc của trụ cột 2 trong Basel II vào hoạt động thanh tra, giám sát ngành ngân hàng đó là: (1) sự khác biệt trong hệ thống các quy định, văn bản pháp luật; (2) chất lượng nguồn nhân lực; (3) tạo lập “môi trường bình đẳng” giữa các ngân hàng thương mại; và (4) mức độ minh bạch của nền kinh tế và hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 4

Nghiên cứu của Manuel Chavez (2007) [117] đã chỉ ra rằng, mặc dù trụ cột 2 của Basel II đã được xây dựng hoàn chỉnh, được quy định chi tiết trong nhiều văn

bản, tài liệu khác nhau, nhưng việc áp dụng tại các quốc gia vẫn gặp nhiều khó khăn do các quy định đặc thù cũng như cơ cấu tổ chức của từng quốc gia. Việc áp dụng các nguyên tắc của trụ cột 2 này rất đa dạng ở từng khu vực khác nhau. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ rõ rằng quy trình đánh giá mức độ đủ vốn nội bộ (ICAAP) theo nguyên tắc thứ nhất của trụ cột 2 đạt được hiệu quả khi mà có sự chia sẻ thông tin hoàn hảo giữa cơ quan giám sát và các tổ chức tín dụng trong nước.

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu

Tổng quan các công trình nghiên cứu phân theo 3 nhóm ở mục 1.1 cho thấy:

Thứ nhất, đa số các công trình nghiên cứu nhóm thứ nhất đi sâu nghiên cứu về các loại hình rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động…) trong hoạt động của NHTM. Các công trình chỉ tập trung nghiên cứu vào việc QTRR tại một ngân hàng riêng biệt (Agribank, Vietinbank…) mà chưa đề cập tới nội dung KSRR của cả hệ thống. Do vậy, các giải pháp và gợi ý chính sách của nhóm các công trình này cũng tập trung vào việc tăng cường QTRR hoặc nâng cao năng lực QTRR đối với một hay một số loại hình rủi ro khác nhau trong hoạt động kinh doanh của một NHTM cụ thể.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu của nhóm thứ hai đã phân tích, đánh giá việc áp dụng các chuẩn mực, các trụ cột của Basel II vào hoạt động kinh doanh của các NHTM. Tuy nhiên, một số công trình chỉ đi sâu phân tích một trong ba trụ cột của Basel II (chẳng hạn vấn đề an toàn vốn tối thiểu). Mặt khác, do thời điểm nghiên cứu khác nhau, bối cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, đặc biệt là phương pháp và cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau nên việc đánh giá, phân tích việc KSRR trong hoạt động NHTM theo các trụ cột của Basel II cũng có những điểm khác biệt. Đa số các công trình nghiên cứu QTRR dưới góc độ NHTM nên phần lớn các giải pháp chủ yếu tập trung vào hoạt động QTRR của NHTM hơn là hoạt động KSRR của NHTW đối với các NHTM hay toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về hoạt động giám sát thị trường tài chính, thanh tra giám sát ngân hàng có cách tiếp cận vĩ mô hơn và phạm vi tiếp cận cũng rộng hơn. Nhóm các công trình này đi sâu phân tích việc áp dụng trụ cột 2 của Basel II, tuy nhiên, các công trình này được thực hiện khi chưa có Đề án của NHNN và việc thực hiện thí điểm Basel II của 10 NHTM Việt Nam nên chưa có những đánh giá ban đầu về tình hình thực hiện áp dụng Basel II tại các ngân hàng thương mại này.

1.3. Những vấn đề đặt ra được tiếp tục nghiên cứu

1.3.1. Vấn đề tiếp tục nghiên cứu

Có thể nói, các nghiên cứu quốc tế về lĩnh vực Basel II là những tài liệu tham khảo quan trọng cho các quốc gia đang phát triển để áp dụng Basel II vào hoạt động QTRR trong ngân hàng, trong đó có Việt Nam. Mặc dù các nghiên cứu quốc tế về lĩnh vực này tương đối đầy đủ và đồ sộ nhưng vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu của từng quốc gia bởi mỗi hệ thống ngân hàng khác nhau lại có những yêu cầu khác nhau trong cách thức áp dụng Basel II của riêng mình.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu đã chỉ ra một bức tranh tổng quan về hoạt động QTRR trong ngân hàng với những gam màu sáng, tối khác nhau. Nếu đánh giá theo cả 03 trụ cột của Basel II, có thể thấy hoạt động QTRR của các NHTM và KSRR của NHNN vẫn nhiều hạn chế và bất cập, đặc biệt là hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng và mức độ công khai, minh bạch thông tin. Điều này đặt ra tính cấp thiết và khoảng trống cho các công trình nghiên cứu trong thời gian tới, nhằm xây dựng những giải pháp giải quyết những hạn chế và bất cập hiện tại cũng như nhằm tăng cường hiện thực hóa tuân thủ Basel II, đảm bảo sự an toàn của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy ở Việt Nam vấn đề KSRR của NHNN cũng như QTRR của NHTM đã và đang được quan tâm hơn trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn. Tuy nhiên, mỗi công trình có phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu khác nhau. Các phương pháp nghiên cứu của một số công trình mới chỉ dừng lại ở phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra thống kê, phương pháp chuyên gia, còn thiếu các mô hình phân tích mang tính định lượng. Lộ trình áp dụng gắn với điều kiện môi trường, thực trạng sức khỏe hệ thống ngân hàng, đặc biệt là gắn với điều kiện nền kinh tế mới nổi như Việt Nam chưa được đề cập đến. Hơn nữa cho đến nay, có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về KSRR đối với các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel II dưới góc độ cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để làm rõ lý luận về KSRR của NHTW theo Basel II, đánh giá thực trạng KSRR của NHNN đối với hoạt động của NHTM trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp tăng cường và hoàn thiện công tác KSRR đối với các NHTM Việt Nam hiện nay là rất cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn.

1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu

Từ “khoảng trống” của các công trình nghiên cứu liên quan, nghiên cứu sinh (NCS) xác định các câu hỏi nghiên cứu của luận án bao gồm:

(1) NHTW sử dụng các nguyên tắc và chuẩn mực của Basel II để KSRR đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM?

(2) Thực trạng KSRR của NHNN Việt Nam đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2010-2017 có thể được đánh giá như thế nào?

(3) Những giải pháp và kiến nghị nào cần được nghiên cứu và đề xuất để thực hiện KSRR của NHNN đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam theo những nguyên tắc và chuẩn mực của Hiệp ước Basel II?

1.3.3. Giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở nhận thức và các khảo sát, luận án sẽ thu thập, xử lý thông tin nhằm kiểm chứng các giả thuyết sau:

Giả thuyết 1: Việc KSRR trong hoạt động của NHTW đối với NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel II sẽ đảm bảo cho các NHTM duy trì đủ nguồn vốn bù đắp cho các khoản lỗ có thể phát sinh từ những rủi ro hiện hữu; giúp chuẩn hóa, cải thiện và lành mạnh hóa lĩnh vực ngân hàng thông qua việc áp dụng các chuẩn mực toàn cầu, giảm thiểu rủi ro và ngăn chặn sự đổ vỡ của các NHTM, đảm bảo hoạt động ổn định lâu dài, phát triển bền vững.

Giả thuyết 2: Cùng với hoạt động kinh doanh ngày càng phức tạp, sản phẩm luôn đổi mới, các NHTM ngày càng phải đối mặt với hàng loạt loại rủi ro khác nhau, từ RRTD đến RRTT, rủi ro chiến lược và cả rủi ro hoạt động. Do vậy, nếu không có KSRR của NHTW đối với các NHTM sẽ dẫn đến việc các NHTM gặp nhiều rủi ro, dẫn đến hoạt động của các NHTM không bền vững, gây bất ổn định cho cả hệ thống tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Tóm lại, vấn đề KSRR trong hoạt động của các NHTM đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và kinh doanh ngân hàng, các nhà xây dựng và vận hành chính sách ở trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, tại Việt Nam chưa có nhiều các công trình nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về vấn đề KSRR đối với các NHTMVN theo Hiệp ước Basel II dưới góc độ của NHNN Việt Nam.

Đây là cơ sở để đề tài “Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại theo Hiệp ước Basel II” được lựa chọn nghiên cứu với sự kế thừa và phát triển một cách chọn lọc những kết quả nghiên cứu trước đây.

Tóm lại, việc KSRR của NHTW đối với các NHTM đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì sự an toàn, bền vững trong hoạt động của các NHTM và của hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cho đến nay chưa

có nhiều công trình nghiên cứu toàn diện và hệ thống ở Việt Nam. Những kết quả này là gợi ý quan trọng cho đề tài nghiên cứu “KSRR trong hoạt động của các NHTM theo Hiệp ước Basel II” có thể kế thừa và phân tích một cách hệ thống về KSRR đối với các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel II.

Basel II là “sản phẩm” của Ủy ban Basel về giám sát các ngân hàng với mục tiêu chuẩn hóa các quy định về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng. Basel được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản đảm bảo các ngân hàng duy trì đủ nguồn vốn bù đắp cho các khoản lỗ có thể phát sinh từ những rủi ro mà ngân hàng đang nắm giữ. Việc triển khai Basel giúp chuẩn hóa, cải thiện và lành mạnh hóa lĩnh vực ngân hàng thông qua việc áp dụng các chuẩn mực toàn cầu.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Trên cơ sở khái quát và tổng hợp nội các công trình nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề KSRR theo Basel II đối với NHTM, tác giả đã hệ thống thành ba nhóm chính: (i) nhóm các công trình nghiên cứu về QTRR tại các NHTM; (ii) nhóm các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các chuẩn mực/các trụ cột của Basel II tại các NHTM; (iii) nhóm các công trình nghiên cứu về giám sát thị trường tài chính, thanh tra, giám sát ngân hàng.

Tổng quan tình hình nghiên cứu cho ta thấy, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến Hiệp ước Basel II, tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau như: QTRR tín dụng của các NHTM theo Hiệp ước Basel II, đổi mới mô hình QTRR của các NHTM Việt Nam tiếp cận Hiệp ước Basel II, v.v... Để đảm bảo các NHTM Việt Nam hoạt động một cách an toàn trong điều kiện tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II, không chỉ hoạt động QTRR của bản thân các NHTM Việt Nam phải được đổi mới và hoàn thiện mà việc KSRR của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM cũng cần phải tuân thủ theo Basel II. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về hoạt động KSRR của NHTW đối với hoạt động của các NHTM theo Hiệp ước Basel II. Đề tài nghiên cứu của Luận án này được lựa chọn nghiên cứu để góp phần bù đắp một trong những khoảng trống đó.

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT RỦI RO THEO BASEL II CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


2.1. Ngân hàng thương mại và rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng và có mức độ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế thị trường. Hoạt động của NHTM luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro và hậu quả của những rủi ro trong hoạt động của NH không chỉ dừng lại ở sự thua lỗ hay phá sản của bản thân các NH mà tác động tới cả nền kinh tế xã hội. Trước khi hệ thống hóa các vấn đề về rủi ro trong hoạt động của NHTM, Luận án sẽ đề cập đến các hoạt động cơ bản của NHTM.

2.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

2.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống NH đã tạo ra các NHTM, được biết đến với chức năng kinh doanh tiền tệ. Hơn bất cứ tổ chức tài chính nào khác, NHTM luôn được coi là bách hoá tài chính, cung ứng rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ về tài chính. Để xây dựng khái niệm NHTM, có thể dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, hoặc kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.

Theo luật pháp nước Mỹ:“bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một NH” [61].

Theo Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941, “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì được coi là NH” [11, tr. 34].

Ở Việt Nam hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về NHTM, quan niệm chung nhất: “NHTM là một tổ chức kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động trong ngân hàng về các lĩnh vực cung cấp tiền tệ, dịch vụ tài chính giữa khách hàng và ngân hàng hoặc ngược lại” [24, tr. 23]. Các hoạt động trong ngân hàng như: huy động nguồn vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.

Ở Việt Nam, theo Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM thì NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Theo quy định tại Điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010 thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” [77].

“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” [77].

Như vậy, với tư cách là trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và cung ứng nhiều dịch vụ tài chính, khái niệm NHTM có thể được xây dựng từ nhiều bình diện khác nhau. Cùng với sự phát triển của hệ thống NH trên khắp thế giới, quy định pháp luật của từng quốc gia lại có thể mở rộng tối đa hoặc hạn chế hoạt động của NHTM trong một số lĩnh vực nhất định.

Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án này, khái niệm về NHTM được xây dựng theo cách tiếp cận truyền thống qua chức năng và các hoạt động cơ bản của nó: “NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế”.

Hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM được biểu hiện qua chênh lệch tỷ giá hối đoái; chênh lệch lãi suất; chuyển đổi kỳ hạn nguồn vốn- tài sản; chuyển đổi rủi ro nguồn vốn- tài sản; và tích tụ và tập trung tư bản.

Các nghiệp vụ của NHTM chủ yếu là nhận tiền gửi và cho vay vốn đầu tư. Tuy nhiên, cũng có những thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của khách hàng, khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội. Nhờ có các NHTM mà các chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước được thực hiện một cách nhanh chóng và kịp thời hơn, từ đó việc kiểm soát các hoạt động của các doanh nghiệp được dễ dàng, theo đúng luật pháp hơn.

2.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại

Một cách phổ biến, hoạt động của NHTM được chia thành 3 nhóm chính bao gồm: (1) Huy động vốn; (2) Sử dụng vốn và (3) Cung cấp các dịch vụ tài chính. So với NH ở các quốc gia đang phát triển, thì hoạt động của NH tại các nước phát triển phong

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023