Đặc Điểm Nhận Thức Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông Trong Học Tập Lịch Sử

quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, tinh thần cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội.

Mục tiêu của việc dạy học lịch sử ở trường THPT được thể hiện chủ yếu qua việc hình thành cho HS những kiến thức, kĩ năng và thái độ, năng lực, phẩm chất:

Thứ nhất, hình thành kiến thức: giúp học sinh tiếp cận những kiến thức cơ bản trong tri thức lịch sử dân tộc và thế giới, bao gồm: sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian, các khái niệm, thuật ngữ lịch sử, những hiểu biết về quan điểm lí luận sơ giản, những vấn đề về phương pháp nghiên cứu, học tập phù hợp với yêu cầu bộ môn và trình độ nhận thức của học sinh.

Thứ hai, hình thành thái độ: giúp hình thành cho học sinh những quan điểm tư tưởng, lập trường, phẩm chất, đạo đức, nhân cách, tình cảm đúng đắn, trung thành với lí tưởng XHCN, góp phần đào tạo con người cách mạng toàn diện, có tinh thần yêu Tổ quốc; Bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, yêu quê hương, có thái độ tích cực vì xã hội, vì cộng đồng; Yêu lao động, sống nhân ái, có niềm tin, ý thức kỉ luật, tuân thủ pháp luật; trân trọng các dân tộc và văn hóa trên thế giới, có tinh thần đoàn kết quốc tế, hữu nghị, yêu hòa bình, đấu tranh cho độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội; nhận thức đúng qui luật phát triển khách quan của lịch sử, giúp các em vững tin vào sự nghiệp xây dựng CNXH của đất nước.

Thứ ba, phát triển toàn diện kĩ năng, năng lực, phẩm chất: rèn cho học sinh những kĩ năng đặc trưng của bộ môn như: ghi nhớ các sự kiện, miêu tả, tường thuật, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa, tài liệu tham khảo liên quan. Kĩ năng thuyết trình, trình bày trước đám đông; làm và sử dụng đồ dùng trực quan; quan sát, đọc bản đồ lịch sử; ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập. Rèn cho các em biết vận dụng KTLM trong học tập để hiểu sâu sắc kiến thức và vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn. Năng lực hợp tác, tự học, tư duy độc lập, sáng tạo.

1.1.2.3. Đặc trưng của kiến thức lịch sử

Muốn đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn, trước hết, mỗi giáo viên cần phải xác định được đặc trưng cơ bản của kiến thức lịch sử. Từ đó, chúng ta mới có thể đề xuất, ứng dụng và thực hành những phương pháp dạy học tích

cực, trong đó có sử dụng KTLM để giảng dạy tốt bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Có thể nêu ra đây năm đặc trưng cơ bản của kiến thức lịch sử như sau:

- Tính quá khứ: Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ. Vì vậy, không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà cần phải thông qua những “dấu tích” của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự vật, sự việc đã diễn ra trong khoảng không gian và thời gian nhất định. Lịch sử là quá trình phát triển liên tục, hợp qui luật của xã hội loài người từ lúc xuất hiện con người trên Trái Đất tới nay. Vì vậy, dạy học lịch sử có những khó khăn nhất định. Học sinh không thể trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử mà chỉ có thể tri giác qua các tài liệu lịch sử, thông qua đồ dùng trực quan để hiểu biết về các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, trong khó khăn này, giáo viên cũng có thể kết hợp rèn luyện cho học sinh khả năng tưởng tượng, tái tại lịch sử trong quá trình tiếp cận và lĩnh hội tri thức lịch sử.

- Tính không lặp lại: Sự kiện lịch sử mang tính không lặp lại về không gian và thời gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng chỉ xảy ra trong thời gian và không gian nhất định. Điều này đòi hỏi giáo viên khi trình bày một sự kiện, hiện tượng lịch sử phải khắc sâu được những đặc điểm cốt lõi của nó để giúp học sinh phân biệt với những sự kiện khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.

- Tính cụ thể: Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình phát triển của các quốc gia, dân tộc. Theo đó, lịch sử mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có những đặc thù riêng do những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể qui định. Đồng thời, trong lịch sử của từng quốc gia, dân tộc đó, tùy theo sự thay đổi của không gian và thời gian thì các tri thức lịch sử cũng thay đổi theo. Vì vậy, giảng dạy lịch sử không thể thiếu việc trình bày chi tiết các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử. Người thầy càng mô tả chi tiết bao nhiêu thì kiến thức lịch sử càng trở nên hấp dẫn, sinh động, gần gũi và thu hút bấy nhiêu.

- Tính hệ thống (tính logic lịch sử): Nội dung tri thức lịch sử vô cùng phong phú, phản ánh mọi lĩnh vực đời sống xã hội loài người trên tất cả các phương diện: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật… Vì vậy, ngành khoa học lịch sử cũng có đối tượng nghiên cứu vô cùng phong phú, phức tạp. Điều này đòi hỏi giáo viên trong quá trình giảng dạy kiến thức cho học sinh phải luôn chú ý đến các mối

Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cổ trung đại Việt Nam ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh - 4

quan hệ ngang dọc, trước sau của các vấn đề lịch sử, phải diễn đạt và trình bày một cách logic để học sinh thấy được mối quan hệ nội tại giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa…

- Tính thống nhất giữa “sử” và “luận”: Đặc trưng khoa học lịch sử là ngành nghiên cứu về quá khứ, những cái đã qua và không lặp lại. Việc ghi chép lại các sự kiện là nguồn sử liệu quí giá để lưu giữ thông tin. Trước khi học thuyết khoa học của Mác ra đời, các sử gia đề ghi chép sử dựa trên lập trường của giai cấp thống trị, bị chi phối bởi quan điểm giai cấp nặng nề, đôi khi phản ánh lịch sử chưa khách quan. Chỉ khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, khoa học lịch sử mới trở thành một khoa học chân chính. Vì vây, việc học tập, nghiên cứu, dạy học lịch sử cần dựa vững chắc vào những nguyên lí của chủ nghĩa Mác, có như vậy thì phần “luận” mới đảm bảo tính khoa học và vận dụng có hiệu quả vào cuộc sống.

Những đặc trưng trên của kiến thức lịch sử đòi hỏi mỗi giáo viên lịch sử phải có kiến thức liên môn sâu rộng, phải biết liên hệ, vận dụng kiến thức đồng tâm giữa các môn học để cung cấp cho học sinh những tri thức lịch sử đúng đắn, chính xác, khoa học và mang tính hệ thống, hoàn chỉnh. Khi làm được điều này, học sinh sẽ thấy được tầm quan trọng của bộ môn lịch sử, góp phần gây hứng thú và sự say mê học tập bộ môn từ học sinh.

1.1.2.4. Đặc điểm nhận thức của học sinh trung học phổ thông trong học tập lịch sử

Ở lứa tuổi của học sinh THPT, các em đã có sự phát triển cơ bản về thể chất, tâm lí, nhận thức gần hoàn thiện như người trưởng thành. Đây là giai đoạn chuyển giao từ trẻ vị thành niên sang lứa tuổi thanh niên, người lớn nên xu hướng chung là các em muốn thể hiện và chứng tỏ “cái tôi” của bản thân với những người xung quanh. Trong hoạt động học tập, các em đã có năng lực hoạt động độc lập, có khả năng tư duy, trừu tượng hóa. Tính chủ định trong quá trình nhận thức đã phát triển, sự tri giác có mục đích đã đạt mức độ khá cao, sự ghi nhớ chủ định giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt, thái độ học tập của học sinh THPT có ý thức rõ hơn ở cấp dưới, hứng thú đối với môn học đã phân hóa rõ, bước đầu hình thành khuynh hướng nghề nghiệp. Do đó, người giáo viên cần phải biết khơi gợi được hứng thú, khiến các em tự tin, say mê nghiên cứu lĩnh vực mình ưa thích và môn học mà các em sẽ lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Thậm

chí, các em còn tiềm ẩn rất nhiều khả năng nghiên cứu khoa học, nếu được hỗ trợ, hướng dẫn từ giáo viên, khả năng đó sẽ được phát huy với hiệu quả cao. Cùng với sự trưởng thành về thể chất, tâm lí, năng lực tư duy nhận thức của học sinh cũng ngày càng được thể hiện rõ nét hơn. Các em có xu hướng thích tìm hiểu và khám phá. Học sinh THPT đã biết nhận định, đánh giá đúng sai về kiến thức trong bài giảng của thầy, biết cập nhật những thông tin khoa học mới bằng những phương tiện hiện đại, sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Vì vậy, để thuyết phục được các em, không có cách nào hiệu quả hơn ngoài việc bản thân mỗi giáo viên phải trang bị cho mình những vốn hiểu biết sâu rộng, vượt ra ngoài khuôn khổ kiến thức bộ môn chuyên ngành, xâu chuỗi và vận dụng được KTLM giữa các môn học một cách logic, hệ thống để giảng dạy cho học sinh.

Nhận thức lịch sử cũng giống như quá trình nhận thức chung là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát hóa. Tuy nhiên, việc lĩnh hội các tri thức lịch sử lại mang một số nét riêng xuất phát từ đặc thù bộ môn. Học sinh không thể trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử đã xảy ra mà hoạt động này chỉ được thực hiện gián tiếp thông qua các tư liệu lịch sử. Các em phải tự tạo được những biểu tượng sinh động, chân thực để có thể tiếp cận gần và hiệu quả nhất với các kiến thức lịch sử. Làm được vậy, học sinh sẽ dễ dàng nắm bắt được nội hàm sự kiện, khái niệm lịch sử, bản chất vấn đề và từ đó sẽ từng bước rút ra được qui luật chung trong sự vận động của lịch sử. Tuy nhiên, để đạt được kết quả nhận thức đó của học sinh, mỗi giáo viên phải luôn sáng tạo trong phương pháp giảng dạy, tìm tòi các phương thức tiếp cận kiến thức một cách cụ thể, sinh động nhất giúp các em tạo biểu tượng lịch sử chân xác.

1.1.2.5. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông

Đổi mới giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm. Trong đó, phương pháp dạy học được xem như yếu tố trung tâm, cốt lõi của việc đổi mới giáo dục.Phương pháp thuyết trình gắn với quan điểm: “Lấy người dạy làm trung tâm” không còn phù hợp với phương pháp dạy học mới ngày nay. Đổi mới phương pháp dạy học trong đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.

Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 phù hợp với xu thế phát triển chương trình giáo dục của các nước tiên tiến, nhằm thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội: “tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà trí, đức, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”[44]. Đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp được xem là then chốt, có tính đột phá cho việc thực hiện chương trình này.

Nhận thức sâu sắc về điều đó, việc đổi mới tư duy giáo dục trong thời đại tri thức nhằm đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống là một tất yếu, bởi vì “khi hệ thống tri thức có những thay đổi thì sớm hoặc muộn, nhanh hoặc chậm, năng lực tư duy và hoạt động của con người cũng phải thay đổi. Đời sống hiện thực biến đổi luôn đặt ra những vấn đề mới, buộc con người phải suy nghĩ, tìm kiếm những lời giải đáp và những phương tiện để giải quyết vấn đề. Những tri thức mới ra đời bổ sung và bồi đắp cho hệ thống tri thức đã có, làm thay đổi cách nhìn nhận, thay đổi từng phần thế giới quan, dẫn đến thay đổi cả phương thức hoạt động của con người và cộng đồng. Điều đó cũng có nghĩa rằng, những tri thức mới đã làm thay đổi tư duy của con người”[21; tr.78].

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương VIII khóa XI nhấn mạnh: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”[2]. Trong đó, tập trung hình thành cho học sinh “năng lực công dân, năng lực thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Phát triển năng lực là một trong những yêu cầu quan trọng, thể hiện rõ nhất việc đổi mới mực tiêu giáo dục. Năng lực được hiểu là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (kiến thức, kĩ năng, thái độ, động cơ, hứng thú…) nhằm thực hiện công việc có hiệu quả. Quan niệm này chi phối toàn bộ các yếu tố của quá trình giáo dục, từ nội dung, phương pháp đến đánh giá kết quả học tập. Mục tiêu phát triển năng lực nhằm khắc phục tình trạng quá chú trọng vào trang bị kiến thức hàn lâm, lí thuyết mà thiếu đi việc hình thành cho người học những kĩ năng thực hành, vận dụng, khả năng tư duy sáng tạo… Mục tiêu phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học đã khắc phục tối

ưu phương pháp dạy học lấy người dạy là trung tâm, góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.

Đổi mới toàn diện giáo dục phổ thông còn chú trọng đổi mới ở tất cả các khâu của quá trình dạy học. Định hướng khái quát này được thể hiện cụ thể ở một số điểm sau:

- Về mục tiêu dạy học: Chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội.

- Về nội dung các môn học: sẽ được “tinh giản, cơ bản, hiện đại, giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn”[2].

- Về chương trình giáo dục phổ thông: sẽ được xây dựng thành một chỉnh thể xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12; tích hợp cao ở các lớp/cấp học dưới; phân hóa mạnh ở các lớp/cấp học cao hơn, nhất là ở trung học phổ thông. Số môn học bắt buộc giảm nhiều; học sinh được tự chọn các môn học chuyên đề phù hợp với năng lực và sở thích, gắn với định hướng nghề nghiệp sau này.

- Về phương pháp dạy và học: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học, theo phương châm “giảng ít, học nhiều”. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học; đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học…

- Về hình thức dạy học: Cần chú trọng đến dạy học tích hợp và dạy học phân hóa.

- Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục: sẽ được đổi mới theo hướng chuyển từ đánh giá kiến thức người học nắm được sang đánh giá việc hình thành năng lực, phẩm chất của người học. Kết hợp chặt chẽ kết quả đánh giá định kì với kết quả thi; đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò; đánh giá của nhà trường và đánh giá của xã hội.

Như vậy, thực hiện theo yêu cầu đổi mới giáo dục mà Đảng chỉ đạo, việc sử dụng KTLM trong dạy học nói chung và ở bộ môn Lịch sử THPT nói riêng là phương pháp tích cực, phù hợp, góp phần vào hiệu quả của công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển xã hội.

1.1.3. Mối quan hệ giữa kiến thức lịch sử với kiến thức các môn học khác

Ngày nay, khi khoa học - công nghệ, thông tin phát triển mạnh mẽ đã khiến cho các khoa học khác nhau gắn bó ngày càng mật thiết. Các ngành khoa học dựa vào những thành tựu nghiên cứu của nhau để làm sáng rõ vấn đề cụ thể trong mỗi chuyên ngành. Việc dạy và học các bộ môn khoa học cơ bản trong nhà trường cũng không nằm ngoài qui luật phát triển chung đó.

Theo C.Mác: “Lịch sử là khoa học của các khoa học”, vì vậy, việc học tập lịch sử một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống là yêu cầu khách quan, phù hợp với đặc trưng kiến thức lịch sử. Việc học tập lịch sử theo đó đòi hỏi sự uyên bác nhất định nhưng cũng đảm bảo sự phù hợp với trình độ học sinh. Các bộ môn nằm trong chương trình giáo dục phổ thông đã được các nhà nghiên cứu giáo dục thống nhất, sắp xếp để sao cho học sinh khi tiếp cận, lĩnh hội kiến thức sẽ có những điểm đồng tâm, kiến thức môn học này sẽ góp phần hỗ trợ làm sáng rõ hay củng cố kiến thức của môn học kia, hoặc ngược lại. Đặc biệt, các môn thuộc nhóm Khoa học xã hội (Lịch sử, Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân) có mối liên hệ rất chặt chẽ bởi đều có đối tượng nghiên cứu chung là con người và cuộc sống của con người. Tuy chức năng và nhiệm vụ của mỗi môn, mỗi ngành khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là phục vụ con người, phục vụ cuộc sống. Điều này chính là cơ sở để các nhà khoa học giáo dục đề ra nguyên tắc liên môn trong dạy học. Nói cách khác, việc vận dụng KTLM trong dạy học là xuất phát từ cơ sở phương pháp luận vững chắc chứ không phải là sự gán ghép tùy tiện.

Có thể chỉ ra mối liên hệ kiến thức giữa Lịch sử với các bộ môn trong chương trình giáo dục THPT, mà trước hết là nhóm bộ môn Khoa học xã hội như sau: 1.1.3.1.Mối quan hệ giữa kiến thức Lịch sử và Văn học

Khoa học lịch sử nghiên cứu về những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá khứ và không lặp lại. Vì vậy, để có được những tri thức lịch sử chính xác, đúng đắn, khách quan, các nhà nghiên cứu phải dựa vào rất nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong đó có tư liệu văn học.

Trong khi đó ta biết, các tác phẩm văn học là sự phản ánh cuộc sống. Mỗi tác phẩm văn học đều ít nhiều thể hiện chất liệu lịch sử trong đó. Bởi, khi sáng tác một tác phẩm, tác giả phải thâm nhập, tìm hiểu thực tế, nghiên cứu các kiến thức lịch sử liên

quan bối cảnh tác phẩm, tìm chất liệu hiện thực để xây dựng cái cốt lõi, “xương sống” của tác phẩm. Dòng văn học dân gian cũng chứa đựng nhiều tầng thông tin phản chiếu sự thật lịch sử (Ví dụ như những truyện cổ tích, truyền thuyết “Mị Châu - Trọng Thủy”, “Sơn Tinh - Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”… hàm chứa nhiều yếu tố phản ánh thực tiễn lịch sử). Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” (của tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sửu, Nguyễn Khắc Phi), tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, do cá nhân hoặc tập thể sáng tạo, phản ánh bằng hình tượng cuộc sống con người, biểu hiện bằng tâm tư, tình cảm, thái đô của chủ thể trước thực tại. Các tác phẩm xuất hiện vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử và phản ánh sự kiện ấy bằng hình tượng văn học, phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ một cách sinh động, cụ thể. Có rất nhiều tác phẩm văn học mà bản thân nó là nguồn tư liệu lịch sử hết sức hùng hồn, xác thực như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh… Những tác phẩm văn học chính luận này, giá trị văn học và giá trị lịch sử hòa quyện vào nhau tạo nên sự hoàn hảo của tác phẩm.

Như vậy, việc giáo viên khai thác, sử dụng một cách hợp lí các tác phẩm văn học trong dạy học lịch sử là điều vô cùng cần thiết. Nó vừa giúp giáo viên cung cấp một cách cụ thể, sáng rõ kiến thức lịch sử vừa giúp học sinh cảm nhận tri thức lịch sử sinh động, gần gũi. Dạy học theo hướng vận dụng liên môn tri thức lịch sử và văn học còn có tác dụng giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức trọng tâm, trực tiếp nâng cao hiệu quả, chất lượng bài học.

1.1.3.2. Mối quan hệ giữa kiến thức Lịch sử và Địa lí

Khoa học Địa lí và khoa học Lịch sử có mối liên hệ đặc biệt. Khi nghiên cứu lịch sử, các nhà khoa học buộc phải căn cứ vào bối cảnh cụ thể, với thời gian và không gian được xác định. Ph. Ăng ghen viết: “Tồn tại ngoài thời gian cũng vô lí như tồn tại ngoài không gian”. Việc xác định các sự kiện lịch sử trong thời gian và không gian là điều kiện bắt buộc để giúp học sinh nhận thức những sự kiện riêng biệt như là những mắt xích liên tục của các quá trình lịch sử hợp qui luật diễn ra trên lãnh thổ nhất định và trong hoàn cảnh lịch sử - địa lí tương ứng.

Hai bộ môn Lịch sử và Địa lí ở trường phổ thông theo đó hàm chứa rất nhiều điểm tương đồng về nội dung, kĩ năng và phương pháp dạy học. Về nội dung, Lịch sử

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2023