Đặc Điểm Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại

phú và đa dạng hơn với công nghệ hiện đại hơn. Nói một cách khác, sự khác biệt chủ yếu ở tính tiện ích hay mức độ thoả mãn những nhu cầu tài chính của nền kinh tế.

Một là, hoạt động huy động vốn. Nguồn vốn thứ nhất bất kỳ NHTM nào cũng đều bắt đầu hoạt động kinh doanh từ việc huy động vốn. Đối tượng huy động vốn của các NH này là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức, doanh nghiệp và dân cư với quy mô và các thời hạn khác nhau. Việc mở tài khoản và thanh toán qua NH trên thực tế mang lại những tiện ích đối với các cá nhân và doanh nghiệp nên nguồn vốn có tỷ trọng lớn tại các NHTM chính là tiền gửi không kỳ hạn [118].

Nguồn vốn thứ hai là tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức có kỳ hạn với mục đích nhận được thu nhập từ lãi suất. Tiền gửi tiết kiệm thường bị hạn chế ở hầu khắp các NHTM trên thế giới bởi lẽ đối tượng gửi tiền tiết kiệm thường là những người có thu nhập khiêm tốn, không có khả năng kinh doanh và không ưa thích mạo hiểm. Đôi khi các các hộ kinh doanh hay các doanh nghiệp cũng gửi tiết kiệm nhưng chỉ với thời hạn ngắn tại một số thời điểm nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tuy quy mô nhỏ, song tính ổn định lại là ưu thế của nguồn vốn này, do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng mà ít phải “lo lắng” về rủi ro thanh khoản.

Nguồn vốn thứ ba là nguồn vốn phát hành các công cụ nợ như trái phiếu và kỳ phiếu để huy động vốn. Ưu thế chính của nguồn vốn này là sự chủ động về thời hạn và tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, quy mô phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường và chi phí vốn thường cao hơn các hình thức huy động vốn khác.

Bổ sung thêm cho nguồn vốn huy động, nguồn thứ tư của NHTM là nguồn vốn vay từ NHTW và các NHTM khác (còn gọi là vay thị trường tiền tệ liên ngân hàng/thị trường bán buôn hay thị trường II) dưới các hình thức khác nhau. Nguồn này có tính thanh khoản cao do vậy mục đích chủ yếu để đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM.

Hai là, hoạt động sử dụng vốn. Hoạt động sử dụng vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất của hầu hết các NHTM là hoạt động cho vay hay còn được gọi là hoạt động tín dụng. Các sản phẩm cho vay của NHTM có thể được phân chia theo các tiêu chí khác nhau như theo đối tượng vay vốn, theo thời hạn và theo tính chất sử dụng… Tương ứng, thu nhập của các NHTM từ hoạt động này hầu hết cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất và phụ thuộc vào các yếu tố như thời hạn cho vay, lãi suất cho vay nhưng quan trọng nhất vẫn là khả năng thanh toán gốc và lãi đúng hạn của khách hàng hay còn gọi là mức độ rủi ro tín dụng.

Hoạt động sử dụng vốn tiếp theo của các NHTM là hoạt động đầu tư. So với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư của các NHTM thường có tỷ trọng nhỏ hơn và tùy theo quy định của các nước khác nhau, tuy nhiên hoạt động này có ý nghĩa quan trọng không chỉ về khía cạnh thu nhập mà là điều kiện để các NHTM thâm nhập sâu, rộng hơn vào nền kinh tế. Thông qua các hình thức đầu tư, các NHTM có thể đa dạng hóa danh mục và giảm thiểu rủi ro, tài trợ cho các dự án kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng.

Ba là, hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính. Song song với các hoạt động huy động nguồn vốn và kinh doanh sử dụng vốn nói trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động rất cơ bản và quan trọng đó là hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính. Chính vì những hoạt động này mà các NHTM được coi là những trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường.

Ngoài các hoạt động thanh toán và các dịch vụ mua bán, thu đổi tiền tệ, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính khác như chuyển tiền, uỷ thác, tư vấn tài chính… Các NHTM ở các nước phát triển còn cung cấp rất nhiều sản phẩm tài chính mang tính tiện ích cao cho khách hàng và các hộ gia đình như home banking, phone banking, ví điện tử…

2.1.1.3. Đặc điểm hoạt động của ngân hàng thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro. Nếu nhìn nhận đầy đủ hơn từ những hoạt động cơ bản trên đây, hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc điểm đặc trưng riêng biệt, khác với đa số các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác [38, tr. 32]. Hoạt động của NHTM có đặc điểm sau:

Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của ngân hàng gắn liền với hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn được đánh giá cao về uy tín và những lợi ích to lớn mang lại cho các cá nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế. Song mặt khác, cũng chỉ ra các ngân hàng khó khăn như thế nào trong việc xác định mục đích và quy mô sử dụng vốn của khách hàng.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 5

Thứ hai, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt với sự vận động đặc biệt của vốn - Tiền có thể sinh ra tiền. Chu kỳ kinh doanh và “đời sống” sản phẩm của ngân hàng không dài như các doanh nghiệp sản xuất vật chất hay cung cấp dịch vụ khác nhưng hoạt động ngân hàng rất phức tạp. Với chu kỳ vận động vốn ngắn, các ngân hàng có thể sinh lời cao song cũng có thể thua lỗ với tốc độ nhanh tương ứng với quy luật phổ biến “lợi nhuận cao, rủi ro cao”.

Thứ ba, nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là huy động từ các chủ thể khác và độ thanh khoản rất cao. Vốn chủ sở hữu thường chỉ chiếm 5% tổng nguồn vốn, tương ứng trên 90% nguồn vốn là của các chủ thể khác. Thêm nữa, chủ thể của các nguồn vốn lại có thể sử dụng hay rút ra bất kỳ lúc nào. Điều này cho thấy các ngân hàng tồn tại và phát triển hoàn toàn dựa vào uy tín hay sự tin cậy của các chủ thể khác, đồng thời khi ngân hàng sụp đổ thì hậu quả thường là hàng loạt các doanh nghiệp và các ngân hàng khác sụp đổ theo gây ra khủng hoảng tài chính và khủng hoảng của nền kinh tế.

Thứ tư, tính chất sản phẩm của NHTM cũng mang những nét riêng biệt của những sản phẩm không thể lưu trữ và chất lượng không ổn định. Sản phẩm ngân hàng là những dịch vụ tài chính với quy mô sản lượng và thu nhập phụ thuộc hoàn toàn vào sự phát sinh nhu cầu khách hàng.

Thứ năm, “vũ khí” cạnh tranh giữa các NHTM cũng khác với các doanh nghiệp thông thường. Ngân hàng không thể chỉ sử dụng yếu tố lãi suất hay là “giá cả” sản phẩm để cạnh tranh mà phải chú trọng vào sự khác biệt trong cung cấp sản phẩm. Trong khi đó, các ngân hàng lại không thể thu hút hay “giữ chân” khách hàng bằng cách nới lỏng các điều kiện cung ứng sản phẩm, dịch vụ.

Thứ sáu, phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM (mặc dù chỉ là hiệu quả tài chính) cũng không đơn giản là “lấy doanh thu bù đắp chi phí”. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng phải được thể hiện thông qua hiệu quả của hoạt động huy động, sử dụng vốn; sự phù hợp giữa nguồn vốn - tài sản và tính thanh khoản của ngân hàng.

2.1.2. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Có thể nhận thấy rằng rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động của NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM là “những biến cố không mong đợi xảy ra và gây tổn thất đối với ngân hàng” [24 tr. 45]. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau sẽ gây ra những hậu quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi lẽ ngay cả những tổn thất không nhỏ về tài chính nhưng cũng có thể đẩy các ngân hàng đến bờ vực phá sản và thậm chí còn có thể lan truyền toàn hệ thống. Việc tìm hiểu về các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi về yêu cầu quản trị và KSRR đối với hoạt động NHTM hiện nay. Có nhiều cách phân loại rủi ro. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn tất, rủi ro của NHTM được chia

thành: (i) rủi ro tín dụng, (ii) rủi ro thị trường, (iii) rủi ro thanh khoản, (iv) rủi ro tác nghiệp (hay còn gọi là rủi ro hoạt động) và (v) rủi ro khác.

Rủi ro tín dụng: Là những rủi ro khi khách hàng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cam kết theo hợp đồng tín dụng, trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến tình trạng khách hàng không trả được gốc và lãi đúng thời hạn. Về cơ bản, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ. Loại trừ một số ít khách hàng lừa đảo, đối với đa số khách hàng dù có tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có tình hình tài chính lành mạnh và ý thức thanh toán đầy đủ cho ngân hàng song vẫn có thể xảy ra những tình huống bất khả kháng dẫn đến không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.

Nói cách khác, rủi ro tín dụng là không thể loại bỏ và các NHTM chỉ có thể hạn chế và chấp nhận RRTD ở mức thấp nhất mà thôi. Để hạn chế RRTD, ngoài những cải tiến và hợp lý hoá về quy trình cho vay và thu nợ, các biện pháp giám sát sử dụng vốn vay v.v…, các NHTM hiện đại thường gia tăng các dịch vụ hỗ trợ tín dụng và đa dạng hoá sử dụng vốn nhằm giảm mức độ tập trung vào hoạt động tín dụng.

Rủi ro thanh khoản: Là những tổn thất xảy đối với NHTM khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến, hay nói cách khác, khả năng chi trả của NHTM không đáp ứng nhu cầu cầu thanh toán hoặc rút tiền của khách hàng. Khi khả năng thanh toán bị giảm sút hoặc có nguy cơ rủi ro, NHTM buộc phải tìm kiếm nguồn và thường là gia tăng các khoản đi vay “nóng” với chi phí rất cao, đặc biệt ở những nơi mà thị trường tiền tệ chưa phát triển. Xét trên giác độ lý thuyết, rủi ro thanh khoản cũng là điều tự nhiên luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, bởi lẽ độ thanh khoản của nguồn vốn (cầu thanh khoản) bao giờ cũng cao hơn các khoản sử dụng vốn (cung thanh khoản).

Để ngăn ngừa rủi ro thanh khoản, các ngân hàng trên thế giới đều xây dựng hệ thống thông tin và thực hiện quản trị nguồn vốn và tài sản để luôn chủ động đảm bảo khả năng thanh toán. Nếu như rủi ro tín dụng ảnh hưởng và tác động đến sự phá sản của NHTM trong một thời gian nhất định thì rủi ro thanh khoản có thể làm cho NHTM sụp đổ ngay tại thời điểm mất khả năng thanh toán.

Rủi ro thị trường: Là những biến động không lường trước của thị trường gây ra những tổn thất về tài sản cho NHTM, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Lãi suất và tỷ giá là những phạm trù khác nhau, và sự biến động của chúng cũng tác động không giống nhau đến hoạt động ngân hàng.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất và tỷ giá luôn được quản lý và duy trì cố định hay ít nhất là ổn định bởi Nhà nước, do vậy các NHTM thường không phải lo lắng đến rủi ro về sự biến động của lãi suất hay tỷ giá. Lãi suất và rủi ro tỷ giá biến động theo chiều hướng khác nhau có thể dẫn đến các kết cục khác nhau đối với các NHTM có trạng thái luồng tiền và ngoại hối khác nhau. Nếu như sự biến động tăng của lãi suất và tỷ giá mang lại lợi ích cho một ngân hàng nào đó thì lại là tổn thất đối với ngân hàng khác có trạng thái luồng tiền và ngoại hối ngược lại. Một NHTM được “hưởng lợi” từ sự biến động tăng của lãi suất hay tỷ giá thì sẽ lại bị “tổn thất” khi lãi suất hay tỷ giá giảm xuống.

Rủi ro hoạt động: Là những tổn thất xảy ra trực tiếp hoặc gián tiếp do quá trình vận hành hay tác nghiệp trong hoạt động của NHTM, như thông tin và xử lý thông tin, quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ, sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong mô hình tổ chức của NHTM, v.v...

Rủi ro hoạt động của các NHTM có xu hướng ngày càng gia tăng, trước hết, là do sự mở rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Mỗi NHTM có thể trở thành các tập đoàn tài chính và là những công ty đa quốc gia. Thêm nữa, môi trường kinh doanh cũng ngày càng phức tạp hơn, áp lực công việc tăng do tốc độ và khối lượng giao dịch tăng, sự lệ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ nhiều hơn, v.v...

Rủi ro tập trung: Là bất kỳ rủi ro đơn lẻ hoặc nhóm rủi ro nào có khả năng tạo ra tổn thất đủ lớn liên quan đến mức vốn của NHTM, tài sản có của NHTM hoặc tổng tổn thất của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, khi thực hiện bất kỳ một khoản tín dụng nào NHTM cũng phải đối mặt với rủi ro về sự vi phạm nghĩa vụ từ phía đối tác, mang đến tổn thất tài chính cho NHTM. Nếu những tổn thất đó có tính chất cá biệt, riêng lẻ thì hậu quả mà NHTM gánh chịu có thể nằm trong sức chịu đựng của NHTM, nhưng nếu tổn thất ở quy mô lớn, tập trung một cách bất lợi trên danh mục tín dụng thì hậu quả sẽ rất nặng nề cho NHTM.

Rủi ro ngoại bảng: Là những rủi ro phát sinh từ những nghiệp vụ không được phản ánh trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng, chủ yếu là các hoạt động dịch vụ và bảo lãnh ngân hàng. Hoạt động ngoại bảng dùng để chỉ các hoạt động liên quan đến các dạng cam kết hay hợp đồng tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng nhưng không được ghi nhận như Tài sản hay Nợ theo thủ tục kế toán thông thường.

Các loại rủi ro khác: Tuỳ vào mục đích quản lý mà NHTM có thể xác định các loại rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của mình như: rủi ro pháp lý, rủi ro

danh tiếng, rủi ro đạo đức… Trong quản trị ngân hàng hiện đại, các NHTM lớn gần đây đã bắt đầu chú ý đến một loại rủi ro mới là rủi ro tập trung tín dụng.

2.2. Kiểm soát rủi ro của Ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương mại theo Basel II

2.2.1. Chức năng của Ngân hàng Trung ương

Ngân hàng Trung ương thực hiện hai chức năng cơ bản: là ngân hàng của quốc gia và thực hiện chức năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó mà thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. NHTW thực hiện các chức năng này thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh, song tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý chứ không phải là mục đích của NHTW. Nói cách khác, mục đích hoạt động của NHTW không phải là mưu tìm doanh lợi mà là ổn định lưu thông tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

2.2.1.1. Chức năng ngân hàng của quốc gia Ngân hàng phát hành tiền

Ngân hàng Trung ương được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền, mức phát hành...) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất, nó mang tính chất cưỡng chế lưu hành, vì vậy mọi người không có quyền từ chối nó trong thanh toán. Nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.

Dưới chế độ lưu thông tiền, vàng, các NHTW được yêu cầu phát hành tiền giấy trên cơ sở có vàng đảm bảo. Tuy nhiên, yêu cầu phải có vàng đảm bảo khi phát hành tiền giấy dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong phát hành tiền do khối lượng tiền phát hành không gắn với nhu cầu lưu thông trao đổi hàng hoá mà phụ thuộc vào số lượng vàng dự trữ của NHTW. Khi nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế vượt quá khả năng đảm bảo của lượng vàng dự trữ, các NHTW không thể đáp ứng được. Do vậy yêu cầu đảm bảo bằng vàng dần dần bị nới lỏng tiến tới bãi bỏ. Ngày nay, lượng tiền phát hành được quyết định dựa trên cơ sở nghiên cứu về nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.

Ngân hàng của các ngân hàng

Ngân hàng Trung ương không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian. Bao gồm: (i) mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian (ii) cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian (iii) trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian.

Ngân hàng của chính phủ

Là một định chế tài chính công cộng, NHTW đã được xác định ngay từ khi ra đời là ngân hàng của chính phủ. Với chức năng này, NHTW có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ, đồng thời làm đại lý, đại diện và tư vấn chính sách cho chính phủ. Ngân hàng Trung ương hoạt động với tư cách là ngân hàng của chính phủ không chỉ bởi nó có lợi thế kinh tế để hoàn thành tốt chức năng này mà còn bởi mối liên hệ giữa các vấn đề về tài chính công cộng với các vấn đề tiền tệ. Nhà nước ở bất cứ quốc gia nào cũng là chủ thể có khoản thu nhập lớn nhất và đồng thời cũng là chủ thể có nhu cầu vay lớn nhất. Các khoản chi của nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của đất nước. Ngân hàng Trung ương thì có trách nhiệm trong việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng và thực hiện chính sách tiền tệ. Trong nhiều trường hợp, các chính sách tài khoá có ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng kiểm soát lượng tiền cung ứng của NHTW. Vì thế, việc tập trung các hoạt động ngân hàng cho chính phủ vào NHTW sẽ tạo cơ hội tốt cho NHTW để điều chỉnh tình trạng tài chính chung và tư vấn cho chính phủ khi cần thiết.

2.2.1.2. Chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia

Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá tiền tệ, đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.

Mối liên hệ giữa khối lượng tiền cung ứng và các biến số kinh tế vĩ mô như sản lượng, giá cả, công ăn việc làm đã được Milton Friedman tìm hiểu và chứng minh qua thực tế của gần 100 năm phát triển kinh tế Mỹ (1870 - 1954). Theo đó, mỗi sự tăng lên hay giảm xuống của khối lượng tiền cung ứng có tác động sâu sắc và toàn diện đến hoạt động kinh tế vĩ mô thông qua các kênh truyền dẫn: tín dụng, tỷ giá, lãi suất, giá tài sản... Nghiên cứu này đã chỉ ra khả năng có thể thông qua

việc chủ động kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền tệ cung ứng để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế.

Ngân hàng thương mại với chức năng phát hành tiền và khả năng tác động mạnh tới hoạt động hệ thống ngân hàng được xem là có khả năng lớn trong việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông nên đã được giao trọng trách xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ của quốc gia. Có thể nói, chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của một NHTW. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động của NHTW (kể cả phát hành tiền) đều nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và bị chi phối bởi các mục tiêu đó.

Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng

Chức năng thanh tra, giám sát của NHTW còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất, nhằm bảo đảm về lợi ích hợp pháp của khách hàng với tư cách là người đi vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về vi phạm và mức độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn, chuẩn mực hóa thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng, quy định cụ thể về xử lý và giải quyết các tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng. Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua quy định về chất lượng và sự cập nhật thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần quy định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp.

Sự cần thiết phải có sự kiểm soát của NHTW đối với hệ thống NHTM là do những đặc thù trong hoạt động của hệ thống này. Hoạt động của hệ thống NHTM có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các khía cạnh của nền kinh tế cũng như đến hầu hết mọi tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế đó. Thêm vào đó, hoạt động NH lại chứa đựng nhiều rủi ro. Do vậy, hoạt động của hệ thống này phải được sự kiểm soát chặt chẽ nhằm tránh các nguy cơ đổ vỡ, qua đó đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của cả hệ thống. Trên cơ sở nhu cầu về kiểm soát đối với hoạt động của hệ thống NHTM, Ủy ban Basel về giám sát NH đã được thành lập và xây dựng nên Hiệp ước Basel với các nội dung quan trọng về kiểm soát NH hiệu quả.

2.2.2 Kiểm soát rủi ro của Ngân hàng trung ương đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại

Kiểm soát rủi ro của NHTW đối với hoạt động của các NHTM là việc thực hiện một trong những chức năng quan trọng của NHTW đối với hệ thống ngân hàng và với nền kinh tế. Như đã được trình bày trên, ngoài trách nhiệm là cơ quan quản

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí