RWA: Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã quy định tại Basel I, Basel II bổ sung thêm RRHĐ. Ngoài ra, cách tính RWA trong Basel II cũng phức tạp hơn. Để đo lường và tính toán mức độ rủi ro đối với các khoản mục tài sản có RRTD, có 03 phương pháp có thể lựa chọn: Phương pháp chuẩn hóa (Standardized); Phương pháp dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ cơ bản (F-IRB); Phương pháp xếp hạng nội bộ nâng cao (A-IRB).
Phương pháp chuẩn
Phương trình đo lường RRTD với tài sản có rủi ro theo phương pháp chuẩn
So với Basel I, có một số điểm khác biệt sau:
Trong Basel II, kết quả đánh giá của tổ chức XHTD độc lập được sử dụng khi xếp hạng cho tài sản có rủi ro. Tuy nhiên, không thực hiện việc áp đặt hệ số rủi ro rõ ràng cho từng khoản mục mà tùy thuộc vào việc khoản mục đó được thực hiện với chủ thể nào, uy tín và XHTD của chủ thể. Việc xếp trọng số bao nhiêu tùy thuộc mức độ tín nhiệm của chủ nợ (từ AAA đến dưới B - và không xếp hạng) do cơ quan xếp hạng tín nhiệm quy định. Trong trường hợp không có kết quả xếp hạng của tổ chức xếp hạng độc lập thì một khoản mục tài sản có sẽ phải chịu hệ số rủi ro 100%.
Nợ cho vay được chia thành 05 nhóm, có thêm hệ số 150%. Các trọng số lần lượt là 0%, 20%, 50%, 100% và 150%. Đối với các khoản nợ quá hạn, phải đưa vào nhóm có hệ số rủi ro 150%, trừ trường hợp ngân hàng đã lập dự phòng đầy đủ.
Phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB)
Basel II cho phép ngân hàng lựa chọn phương pháp XHTD nội bộ (IRB) của mình để xác định dư nợ của khách, xác suất vỡ nợ, kỳ đáo hạn hiệu dụng, tỷ trọng tổn thất tín dụng, từ đó tính toán tài sản có RRTD.
Khác biệt lớn nhất của phương pháp IRB và phương pháp chuẩn hóa chính là việc ngân hàng được sử dụng kết quả đánh giá nội bộ về các yếu tố rủi ro chủ yếu trong hoạt động để tính toán CAR. Tuy nhiên, ngân hàng muốn áp dụng phương pháp IRB cần có sự chấp thuận của cơ quan giám sát ngân hàng (như thanh tra ngân hàng hoặc NHNN). Phương pháp này phù hợp với ngân hàng với nhiều quy mô khác nhau, nhiều cấu trúc doanh nghiệp khác nhau và danh mục rủi ro khác nhau.
Phương trình đo lường RRTD của tài sản có rủi ro theo phương pháp IRB
Trong đó:
EAD: Tổng dư nợ của khách hàng khi khách hàng không trả được nợ;
K (Capital required): Tỷ lệ vốn cần thiết để dự phòng những trường hợp RRTD không lường trước nhưng lại xảy ra, được xác định thông qua: (1) Xác suất vỡ nợ (PD: Probability of Defaut); (2) Tổn thất khi xảy ra vỡ nợ (LGD: Loss Given Defaut); (3) Đáo hạn hiệu dụng (Maturity).
RWA: Được xác định cụ thể cho từng hình thức cho vay. RWA khác biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như đối với các khoản cho vay đối với doanh nghiệp lớn
Ủy ban Basel đưa ra 2 lựa chọn cho ngân hàng khi áp dụng IRB, một là IRB cơ bản và hai là IRB nâng cao. Cụ thể:
Với IRB cơ bản, các ngân hàng phải tự ước tính PD và sử dụng các ước tính của cơ quan giám sát về các thành tố rủi ro còn lại.
Với IRB nâng cao, ngân hàng sẽ tự đưa ra các ước tính cho tất cả các thành tố rủi ro (gồm PD, LGD, EAD, M), nhưng phải tuân theo các chuẩn mực tối thiểu.
KSRR thị trường
Rủi ro thị trường xảy ra do giá cả biến động thất thường, gắn với 04 rủi ro cơ bản là (1) rủi ro lãi suất; (2) rủi ro trạng thái vốn; (3) rủi ro tỷ giá; (4) rủi ro hàng hóa.
Vốn yêu cầu đối với RRTT: Ngoài vốn tự có theo Basel I gồm vốn cấp 1 & vốn cấp 2, khi đánh giá RRTT, ngân hàng được phép tính thêm phần vốn cấp 3 gồm các khoản nợ phụ thuộc ngắn hạn với mục đích dự trữ.
Phương pháp chuẩn hóa
Yêu cầu vốn đối với RRTT theo phương pháp chuẩn hóa được xem xét đối với từng yếu tố rủi ro gồm: rủi ro lãi suất; rủi ro trạng thái vốn; rủi ro tỷ giá; và rủi ro hàng hóa.
Việc tính toán yêu cầu vốn đối với RRTT được thực hiện bằng cách lấy phần ước tính RRTT nhân với 12,5 và cộng vào kết quả tổng tài sản có rủi ro tương ứng với RRTD. Trong đó, RRTT được đo lường phổ biến bằng giá trị VaR.
Phương pháp mô hình nội bộ
Để sử dụng mô hình nội bộ để đánh giá RRTT, các NHTM cần sự đồng ý từ phía cơ quan giám sát ngân hàng. Yêu cầu tối thiểu mà các NHTM phải đáp ứng là:
Có hệ thống QTRR tương thích, hiện đại và đầy đủ dữ liệu cần thiết;
Có đủ số lượng chuyên viên được trang bị kỹ năng sử dụng các mô hình phức tạp không chỉ trong giao dịch mà còn trong QTRR, kiểm toán;
Mô hình của ngân hàng được cơ quan giám sát đánh giá có chất lượng, đã qua kiểm tra về tính hợp lý và chính xác khi đo lường rủi ro;
Khi đã được chấp thuận thực hiện phương pháp mô hình nội bộ, ngân hàng phải xây dựng mô hình QTRR theo tiêu chuẩn sau: i) Đối với rủi ro lãi suất: Xác định nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất mỗi đồng tiền liên quan tới danh mục đầu tư của ngân hàng trên cơ sở nhạy cảm rủi ro lãi suất, kể cả khoản mục trong và ngoài bảng cân đối kế toán; ii) Đối với rủi ro tỷ giá (bao gồm biến động giá vàng): Hệ thống QTRR phải kết hợp các nhân tố rủi ro liên quan tới từng loại tiền riêng lẻ; iii) Đối với rủi ro giá cả hàng hóa: Phải thiết kế được hệ thống theo dõi biến động giá cả loại hàng hóa đó trên phạm vi thế giới, vị thế mua bán hoặc lời lỗ đối với từng giao dịch liên quan tới sự biến động này.
Kiểm soát rủi ro hoạt động
Theo Basel II, có 03 phương pháp để ngân hàng lựa chọn tính toán vốn dự phòng cho QTRR hoạt động với mức độ phức tạp và nhạy cảm với rủi ro tăng dần: (1) Phương pháp chỉ số cơ bản; (2) Phương pháp chuẩn hóa; (3) Phương pháp nâng cao.
Việc lựa chọn phương pháp cần phụ thuộc vào mức độ phức tạp trong hoạt động của ngân hàng. Cần lưu ý rằng, ngân hàng, khi đã được chấp thuận sử dụng phương pháp nâng cao, sẽ không được phép chuyển ngược trở lại phương pháp đơn giản.
Phương pháp chỉ số cơ bản BIA
Đối với phương pháp này thì cần duy trì mức vốn để dự phòng rủi ro hoạt động bằng mức bình quân tổng thu nhập hàng năm (> 0) của thời kỳ 03 năm trước đó nhân với tỷ lệ phần trăm cố định (gọi là alpha - α).
Phương trình vốn dự phòng RRHĐ trong phương pháp chỉ số cơ bản
Trong đó: KBIA: Vốn yêu cầu phải dự phòng cho RRTN theo BIA GIn: Tổng thu nhập có giá trị dương (> 0) của 03 năm trước đó
n: Số năm trong 03 năm có thu nhập hàng năm > 0 α: Trọng số rủi ro cố định theo BIA, bằng 15% Phương pháp chuẩn hóa TSA
Theo phương pháp chuẩn hóa, các nội dung hoạt động của ngân hàng được chia thành 08 lĩnh vực và mỗi lĩnh vực sẽ có một hệ số Beta - β tương ứng.
Bảng 2.2. Hệ số β trong phương pháp chuẩn đối với rủi ro hoạt động
Hệ số Beta - β | |
Tài trợ doanh nghiệp (β1) | 18% |
Giao dịch và bán hàng (β2) | 18% |
Ngân hàng bán lẻ (β3) | 12% |
Nghiệp vụ NHTM (β4) | 15% |
Dịch vụ thanh toán (β5) | 18% |
Dịch vụ đại lý (β6) | 15% |
Quản trị tài sản (β7) | 12% |
Môi giới (β8) | 12% |
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Đặt Ra Được Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Đặc Điểm Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mục Đích Của Kiểm Soát Rủi Ro Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Hoạt Động Của Ngân Hàng Trung Ương Theo Basel Ii
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kiểm Soát Rủi Ro Theo Basel Ii Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Kiểm Soát Rủi Ro Theo Basel Ii Tại Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới Và Bài Học Cho Việt Nam
- Thách Thức Ngân Hàng Trung Quốc Đối Mặt Khi Thực Hiện Basel Ii
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Nguồn: [104]
Trong mỗi lĩnh vực, tổng thu nhập GI là một chỉ số phổ biến, coi như một thước đo cho hoạt động và cũng là căn cứ xác định mức độ rủi ro cho hoạt động đó. Mức độ rủi ro hàng năm được đo cho từng loại nghiệp vụ.
Phương trình: Vốn dự phòng rủi ro hoạt động trong phương pháp chuẩn hóa
Trong đó: KTSA: Vốn yêu cầu dự phòng cho RRTN theo TSA GIi: Thu nhập hàng năm đối với từng nhóm lĩnh vực
βi: Tỷ lệ cố định do Ủy ban quy định, thể hiện mối tương quan giữa mức vốn cần có với mức thu nhập của từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể.
Phương pháp nâng cao AMA
Phương pháp AMA là lựa chọn tốt nhất khi tính toán nhu cầu vốn cho RRTN. Theo phương pháp này, vốn cho RRTN được tính dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ RRTN cơ bản của ngân hàng. Hệ thống này không chỉ thống kê thiệt hại bên trong và bên ngoài thực tế mà còn phân tích theo trình tự thời gian các yếu tố liên quan đến môi trường kinh doanh cũng như môi trường kiểm soát nội bộ ngân hàng. Tuy nhiên, để sử dụng phương pháp này, ngân hàng phải được sự đồng ý và giúp đỡ của cơ quan giám sát chủ quản. Do đó, AMA ít phổ biến hơn so với TSA.
2.2.4.2. Thanh tra, giám sát ngân hàng – Trụ cột 2 của Basel II
Trụ cột thứ 2 dựa trên một loạt các hướng dẫn chi tiết, trong đó nêu rõ sự cần thiết đối với ngân hàng phải đánh giá nhu cầu vốn trong mức tương quan với độ rủi ro chung của mình và đối với cơ quan thanh tra, giám sát; phải xem xét kết quả đánh giá này và có những biện pháp thích hợp trong trường hợp cần thiết.
Theo trụ cột 2 của Hiệp ước Basel II, NHTM phải thiết lập một hệ thống giám sát và báo cáo RRTD hiệu quả. Hoạt động giám sát phải được thực hiện ở tất cả các hoạt động liên quan nhằm nhận diện sớm những thay đổi về RRTD ở cấp độ từng khoản tín dụng và danh mục tín dụng. Báo cáo giám sát phải đệ trình lên các nhà quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị (HĐQT) của ngân hàng để các nhà quản lý cấp cao và HĐQT có thể hiểu rõ và đánh giá được các vấn đề cơ bản: (i) mức độ, xu hướng RRTD và tác động của RRTD lên mức vốn; (ii) sự nhạy cảm và hợp lý của các giả định được đưa vào sử dụng để đánh giá RRTD và vốn; (iii) có thể đánh giá được yêu cầu vốn trong tương lai trên cơ sở báo cáo RRTD và những thay đổi cần thiết về chiến lược RRTD tương ứng; (iiii) xác định được mức vốn cần thiết để bù đắp cho RRTD và phù hợp với mục tiêu vốn đã xác định [86, tr. 50].
Trong trụ cột 2 của Basel II đề cập tới những nội dung sau: 1) Các nguyên tắc chủ chốt của việc kiểm tra, giám sát; 2) Các vấn đề cụ thể phải được quan tâm trong quá trình kiểm tra, giám sát như: rủi ro lãi suất trong sổ ngân hàng, RRTD, RRHĐ, RRTT và những rủi ro còn lại (residual risk) không được đề cập tại trụ cột 1 như là rủi ro hệ thống, rủi ro tập trung, rủi ro chiến lược; 3) Các yêu cầu khác đối với quá trình kiểm tra giám sát: tính minh bạch, giám sát, thông tin liên lạc và sự hợp tác tăng cường qua biên giới.
Với trụ cột này, Basel II nhấn mạnh 04 nguyên tắc chủ chốt của công tác thanh tra, giám sát ngân hàng gồm:
Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần có một quy trình đánh giá mức độ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có một chiến lược duy trì mức vốn đó. Theo đó, công tác quản trị ngân hàng phải đảm bảo ngân hàng có đủ vốn để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra. Quá trình QTRR bao gồm những nội dung như: giám sát quản trị của Ban Giám đốc và cấp cao; đánh giá vốn chắc chắn; đánh giá rủi ro toàn diện, thanh tra và báo cáo; kiểm soát nội bộ.
Nguyên tắc 2: Tổ chức giám sát cần rà soát, kiểm tra và đánh giá lại quy trình đánh giá về yêu cầu vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng của họ để thanh tra và khẳng định sự tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Các tổ chức
giám sát cần thực hiện những hành động giám sát phù hợp nếu các ngân hàng không hài lòng với kết quả của quá trình giám sát.
Nguyên tắc 3: Tổ chức giám sát nên kỳ vọng ngân hàng hoạt động ở mức tỷ lệ vốn cao hơn mức tỷ lệ vốn tối thiểu và khuyến nghị ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn này. Điều này giúp ngân hàng tăng cường khả năng chống đỡ với các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nguyên tắc 4: Tổ chức giám sát cần can thiệp sớm, ở giai đoạn đầu tiên, nhằm ngăn ngừa tình trạng vốn của ngân hàng giảm xuống tới mức thấp hơn mức tối thiểu; và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Tùy điều kiện mà tổ chức giám sát có thể cân nhắc áp dụng các công cụ như tăng cường giám sát trực tiếp ngân hàng; giới hạn chi trả cổ tức; yêu cầu ngân hàng xây dựng kế hoạch khôi phục lại mức vốn tối thiểu theo quy định; buộc ngân hàng tăng vốn ngay để đảm bảo mức vốn tối thiểu…
2.2.4.3. Nguyên tắc thị trường, minh bạch thông tin - Trụ cột thứ 3 của Basel II
Đặc điểm quan trọng của Basel II về vốn là ngân hàng được trao nhiều quyền chủ động hơn trong việc định nhu cầu vốn của mình dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ. Do vậy, trụ cột 3 giúp các thành viên tham gia thị trường có điều kiện đánh giá tốt hơn thông tin về mức độ rủi ro và quy mô vốn của ngân hàng, qua đó tạo điều kiện để ngân hàng, cơ quan thanh tra QTRR hiệu quả hơn, nâng cao hơn nữa mức độ ổn định của từng ngân hàng nói riêng và của hệ thống ngân hàng nói chung.
Những nguyên tắc chung trong trụ cột 3 là:
* Đối với ngân hàng: 1) Cần có chính sách về tính minh bạch được Hội đồng quản trị thông qua, trong đó thể hiện rõ cách tiếp cận của ngân hàng đối với việc xác định sự minh bạch nào và kiểm soát nội bộ nào sẽ thực hiện theo quá trình minh bạch; 2) Cần thể hiện rõ các mục tiêu và chiến lược dành cho việc công khai hóa thông tin về thực trạng tài chính và hoạt động ngân hàng; 3) Cần xây dựng kế hoạch thực hiện công khai tài chính theo định kỳ gồm: cơ cấu vốn, cơ cấu rủi ro, đánh giá rủi ro, và thực trạng phù hợp vốn… 4) Cần có chính sách công khai rõ ràng và một quy trình đánh giá sự chính xác trong báo cáo của họ. Đối với từng loại rủi ro riêng biệt, ngân hàng cần mô tả các mục tiêu và các chính sách QTRR của họ.
* Đối với cơ quan thanh tra, giám sát
Áp dụng các biện pháp phù hợp, buộc các ngân hàng thực hiện yêu cầu công bố thông tin quy định tại Basel II. Nội dung của các biện pháp cụ thể cần tùy thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau như: vị thế pháp lý của cơ quan thanh tra, thực trạng hoạt động công khai thông tin của ngân hàng nước đó…
2.2.5. Công cụ Stress Test - cách thức để Ngân hàng Trung ương giám sát và kiểm soát rủi ro
Theo Dimitri G. Demkas (2015), “Stress test” (ST) không phải là thuật ngữ mới trên thế giới. Thuật ngữ này bắt nguồn từ ngành kỹ thuật, phân tích sức chịu đựng là cách thử nghiệm một hệ thống hay cấu trúc vượt quá khả năng hoạt động bình thường dẫn đến không hoạt động trong hoàn cảnh nào, từ đó xác nhận thông số kỹ thuật cần được đảm bảo của hệ thống hay cấu trúc đó. Trong lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân hàng một trong những lĩnh vực đầu tiên phương thức này vào đầu những năm 1990, J.P.Morgan đã tích hợp vào phương pháp ma trận rủi ro (RiskMetrics) để đo lường RRTT (Zangari, 1996). Sau đó, phương pháp này được áp dụng rộng rãi tại các tổ chức tài chính, NHTƯ, các cơ quan quản lý và giám sát. Cơ quan giám sát tài chính đã nhận ra lợi ích của việc kiểm tra sức chịu đựng của toàn bộ danh mục hoặc toàn bộ bảng cân đối từ các tình huống mô phỏng lượng hóa các giả thuyết về “cú sốc” cho các biến được lựa chọn và đánh giá tác động lên lợi nhuận, vốn, hay khả năng của các tổ chức quy định để tiếp tục đáp ứng các nghĩa vụ của họ, bao gồm cả các yêu cầu từ các cơ quan giám sát.
Năm 1999, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng cũng nhanh chóng tính hợp phương pháp ST vào quy định của mình. Trong đó, ST được nhìn nhận là tập hợp các kỹ thuật và phương pháp được sử dụng để đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro hay mức độ tổn thương của các tổ chức tài chính, ngân hàng trước những sự kiện, hoàn cảnh rất bất lợi. Để đánh giá được mức độ tổn thương, sự kiện rất bất lợi mà người thực hiện ST cần kiến tạo là những sự kiện có tính chất cực độ, mang tính chất rất ngoại lệ, bất thường (extreme & exceptional) nhưng có khả năng xảy ra (plausible). Trong Basel II (BSBS, 2006), ST được nhắc tới nhiều lần trong cả trụ cột 1 - yêu cầu về vốn tối thiểu và trụ cột 2 - quy trình đánh giá giám sát. Cụ thể những nội dung liên quan đến ST được nhắc tới trong Basel II như sau:
Thứ nhất, trong trụ cột 1 về yêu cầu vốn tối thiểu, ngân hàng yêu cầu cần phải đủ vốn để bù đắp theo ba rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt: RRTD, RRHĐ và RRTT. Cụ thể với RRTD, Basel đưa ra hai cách thức tiếp cận: theo phương pháp tiêu chuẩn và theo phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ. Trong phương pháp dựa trên XHNB, kỹ thuật ST được sử dụng để đánh giá mức độ đủ vốn, theo đó để thực hiện ST cần phải bao gồm việc xác định sự kiện có thể xảy ra hoặc sự biến động
trong tương lai của môi trường kinh tế mà có thể tác động xấu tới nguy cơ rủi ro tín dụng, từ đó đánh giá khả năng của ngân hàng liệu có đủ sức chống đỡ những thay đổi đó hay không. Ví dụ như đưa ra các tình huống: (i) cả nền kinh tế hoặc một lĩnh vực nào đó suy giảm; (ii) sự kiện về rủi ro thị trường; (iii) điều kiện về thanh khoản. Cơ quan giám sát quốc gia cần phải ban hành hướng dẫn cho các ngân hàng để thực hiện ST, thiết kế cuộc ST cũng như xác định mục tiêu của ST.
Với RRTT, hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp tiêu chuẩn và theo mô hình nội bộ. Với mô hình nội bộ, ngân hàng sử dụng cách tiếp cận mô hình nội bộ để đáp ứng yêu cầu vốn cho rủi ro thị trường cần phải thực hiện ST một cách toàn diện và khắt khe. Kết quả của ST cần phải được đánh giá định kỳ bởi các nhà quản lý cấp cao, được sử dụng để đánh giá mức độ đủ vốn và được phản ánh trong chính sách và giới hạn được thiết lập bởi các nhà quản lý cấp cao. Sau khi ST đưa ra được kết quả về tính dễ tổn thương khi một tình huống xấu xảy ra, ngân hàng cần phải thiết kế các bước quản trị tiếp theo cho phù hợp với kết quả ST (ví dụ phòng ngừa rủi ro hoặc giảm thiểu nguy cơ rủi ro hoặc tăng vốn).
Thứ hai, về quá trình xem xét giám sát, theo trụ cột 2, ngân hàng cần phải có một quy trình để đánh giá mức độ đủ vốn nội bộ trong đó các rủi ro phải đảm bảo tính toàn diện. Các rủi ro có thể áp dụng phương pháp ST là RRTT và RRTD trong đó có RRTD tập trung và RRTD đối tác.
Cơ quan giám sát sẽ đánh giá lại quá trình ST do các ngân hàng thực hiện để xem xét và quyết định ngân hàng liệu có đủ vốn hay không. Cơ quan giám sát từ đó sẽ đưa ra yêu cầu cho các nhà quản trị ngân hàng nếu như không qua được ST Việc ST cần phải đảm bảo tính hợp lý, khắt khe và liên quan nhằm giúp ngân hàng trong việc đánh giá vốn, xem liệu có đủ để hấp thu việc thua lỗ lớn hay không, cũng như xác định các bước cần thiết để giảm thiểu rủi ro và bảo toàn vốn, ví dụ như yêu cầu ngân hàng giảm mức độ rủi ro và/hoặc nắm giữ thêm vốn/dự phòng.
Nghiên cứu áp dụng mô hình ST đơn giản do Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) khuyến nghị dành cho các quốc gia đang phát triển do tác giả Martin Cihák và các cộng sự xây dựng. ST vận hành dựa trên các tài khoản kế toán là phương pháp cơ bản đối với các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác. Phương pháp này sử dụng dữ liệu từ các tài khoản kế toán làm nền tảng cơ sở cho phân tích ST. Có hai nguyên nhân chính để phương pháp này được áp dụng rộng rãi như sau: Một là, các thông tin dưới dạng cân đối tài khoản được trình bày và công bố một cách chuẩn hóa. Điều này giúp cho việc so sánh, đối chiếu một cách tổng thể trở nên