Thách Thức Ngân Hàng Trung Quốc Đối Mặt Khi Thực Hiện Basel Ii

hàng. Tỷ lệ nợ xấu cao trong tổng tài sản của các ngân hàng tại Trung Quốc khiến cho việc áp dụng Basel II ngày càng trở nên phức tạp do các nhà quản lý phải ra quyết định lựa chọn giải pháp đối với tỷ lệ nợ xấu này nhưng không gây ra sự gia tăng quá mức mức dự phòng, dẫn tới sự suy giảm về tín dụng cho các ngành và doanh nghiệp cụ thể.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được từ năm 2007 đến năm 2009, Trung Quốc đã chính thức áp dụng Basel II vào cuối năm 2010, áp dụng đối với 10 ngân hàng hàng đầu và thực hiện theo phương pháp tiếp cận nội bộ IRB, mặc dù CBRC đã hối thúc 3 NHTM hàng đầu, gồm Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China), Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc (China Construction Bank) và Ngân hàng Công thương Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China) xây dựng hệ thống QTRR trên cơ sở phương pháp tiếp cận nội bộ (IRB) sớm hơn. Các ngân hàng áp dụng IRB phải áp dụng phương pháp mô hình nội bộ đối với RRTT và phương pháp AMA đối với RRTN (KPMG, 2008). Đối với các ngân hàng chưa sẵn sàng áp dụng Basel II theo thời hạn quy định, được phép chậm lại đến hết năm 2013. Đối với các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn có thể lựa chọn áp dụng Basel II khi sẵn sàng hoặc tiếp tục áp dụng Basel I cho đến khi ngành ngân hàng phát triển phù hợp với mục tiêu cải cách.

Khó khăn và thách thức

Khi tiến hành áp dụng Basel II, các ngân hàng Trung Quốc gặp rất nhiều thách thức và khó khăn trong quá trình áp dụng này.

Bảng 2.4. Thách thức ngân hàng Trung Quốc đối mặt khi thực hiện Basel II


Trụ cột

Thách thức

Kết quả

Trụ cột 1

Đáp ứng yêu cầu liên

quan tới mức an toàn vốn


Ngân hàng Trung Quốc phải cố gắng tăng cường mức vốn tổng thể của mình.

Chi phí vốn tối thiểu tăng

thêm đối với RRTN

Thực hiện phương pháp chuẩn hóa

Khó áp dụng do thiếu tổ chức XHTD uy tín trong nước; thiếu dữ liệu; hệ thống thông tin

yếu.

Thực hiện phương pháp mô hình đánh giá nội bộ

Khó thực hiện do phương pháp xếp hạng còn

kém và hạn chế trong việc áp dụng các kết quả xếp hạng.

Trụ cột 2

Áp dụng phương thức giám sát, kiểm soát theo Basel II

Vì một số lý do nhất định, việc thực hiện Basel II tác động tiêu cực tới quy định đảm bảo an toàn và hạn chế hoạt động cho vay

thận trọng.

Sự hỗ trợ hoạt động

giám sát

Không đáp ứng yêu cầu hỗ trợ do thiếu cơ sở

dữ liệu giám sát và chế độ kiểm toán, kế toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 10


Trụ cột

Thách thức

Kết quả



chưa đầy đủ.

Trụ cột 3

Đối với những ngân hàng không trong danh sách thực hiện Basel II

tại Trung Quốc

Nội dung thông tin công bố trên website không đáp ứng yêu cầu của các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là thông tin về tài

chính trọng yếu.


Tính nhất quán trong tiêu chuẩn thống kê

Nhiều phương pháp thống kê được CBRC áp dụng đối với từng cấp độ khác nhau trong ngành ngân hàng. Do đó, các ngân hàng

Trung Quốc chỉ có thể so sánh trong cùng một cấp độ nhất định.

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở lý thuyết

2.4.1.5. Kinh nghiệm của Thái Lan

Kết quả đạt được

Hệ thống ngân hàng Thái Lan có một bề dày lịch sử, và đã từng chao đảo trước sóng gió của cuộc khủng hoảng 1997 - 1998. Nằm trong một thị trường tài chính trong giai đoạn chuyển đổi, hệ thống ngân hàng Thái Lan đã và đang áp dụng mô hình quản lý rủi ro theo mô hình tập trung và có sự giám sát và kiểm soát rất chặt chẽ (Michael Mcalleera, Juan-Angel Jimenez- Martin, Teodosio, 2013).

Hiện tại, các ngân hàng Thái Lan đã dần bắt đầu áp dụng mô hình kiểm soát rủi ro tín dụng kép. Mô hình KSRR tín dụng kép được thể hiện qua việc kiểm soát tín NHTW và hệ thống kiểm soát tín dụng của các cơ quan bên ngoài như Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi các công ty tư nhân. Các ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục kết xuất thông tin và chủ động thực hiện các báo cáo về khách hàng vay, lịch sử trả nợ vay cho các đơn vị liên quan theo yêu cầu. Theỏ đó, thông tin được công bố một cách minh bạch, công khai và chính xác.

Ngân hàng trung ương Thái Lan đã thể hiện nỗ lực và mong muốn thực hiện Basel II tuy nhiên vẫn chưa quyết liệt và nhanh chóng như tại các quốc gia phát triển khác. Thái Lan đã đạt được nhiều kết quả trong việc nâng cao sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng thông qua việc giải quyết nợ xấu, để chuẩn bị cho việc thực hiện Basel II từ năm 2008. Ngân hàng trung ương Thái Lan đã lựa chọn phương pháp tiếp cận thận trọng nhằm phù hợp với đặc điểm hệ thống ngân hàng tại Thái Lan và cho phép các NHTM trong nước thêm thời gian để thu thập dữ liệu cần thiết để có thể áp dụng các chuẩn mực Basel II. Các cơ quan quản lý và giám sát tại Thái Lan đã ban hành các quy định nghiêm ngặt để tăng cường sự đổi mới hệ thống tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Basel II vào cuối năm

2009, theo đó yêu cầu các ngân hàng trong nước phải tập trung tuân thủ những kế hoạch tổng thể tài chính được ban hành.

Một số ngân hàng Thái Lan đã áp dụng Basel II từ năm 2008 thông qua việc nâng dần các tiêu chuẩn tổng thể đối với ngành ngân hàng. Quan điểm của các ngân hàng này là nên lựa chọn áp dụng Basel II căn cứ trên mức độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của mình. Toàn bộ hệ thống các ngân hàng Thái Lan đã chuyển sang thực hiện Basel II vào cuối năm 2008. Đến cuối năm 2009, nhiều ngân hàng tại Thái Lan đã chuyển sang các phương pháp nâng cao (Sophonpanich, 2007). Đối với RRTN, đến cuối năm 2010, các ngân hàng tại Thái Lan đã áp dụng hoàn toàn theo phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn.

Ngân hàng trung ương Thái Lan đã thành lập các nhóm nghiên cứu nội bộ để xây dựng Sổ tay Hướng dẫn về Basel II phù hợp với điều kiện thị trường tài chính Thái Lan. Các cán bộ được cử đi nước ngoài để tập huấn cách thức áp dụng Basel

II. Các chuyên gia từ phía cơ quan quản lý và nhà tư vấn được mời tới hội thảo để tập huấn về nội dung, cách áp dụng cũng như những vấn đề liên quan tới hoạt động giám sát. Trong khoảng thời gian xây dựng Dự thảo Basel II để phù hợp với thị trường tài chính Thái Lan, NHTW Thái Lan đã nghiên cứu cẩn thận những Sổ tay Hướng dẫn của các quốc gia khác và tham gia lấy ý kiến tư vấn từ các nhà giám sát.

Khó khăn và thách thức

Việc thực hiện Basel II tại Thái Lan dưới góc độ quản lý giám sát gặp phải một số thách thức:

Thứ nhất, việc áp dụng nguyên tắc thứ 3 theo trụ cột 2, theo đó các cơ quan giám sát yêu cầu các ngân hàng phải giữ một mức an toàn vốn lớn hơn mức tối thiểu theo yêu cầu. Đây thực sự là một thách thức cho việc giám sát tuân thủ đối với các cơ quan quản lý giám sát khi yêu cầu các ngân hàng phải nắm giữ một mức vốn tăng thêm bởi mức vốn này ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Thứ hai, thiếu hụt cơ sở dữ liệu cho việc đánh giá của cơ quan thanh tra giám sát. Việc phải sử dụng các mô hình tài chính phức tạp để đo lường rủi ro danh mục đầu tư của ngân hàng đòi hỏi các ngân hàng phải có đầy đủ dữ liệu, kỹ thuật đo lường rủi ro hiệu quả và một quy trình đánh giá nghiêm ngặt.

Thứ ba, để giám sát một mô hình đo lường rủi ro hiệu quả, ngoài yếu tố dữ liệu, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng phải nâng cao sự hiểu biết và kiến thức liên quan tới những kỹ thuật QTRR. Trước mắt, ngân hàng nhà nước có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài, nhưng về lâu dài, cần phải xây dựng một đội ngũ cán

bộ chuyên môn, có trình độ chuyên sâu về hệ thống QTRR, đặc biệt là hệ thống đánh giá nội bộ và các mô hình lượng hóa rủi ro.

Thứ tư, sự hợp tác và phối hợp giữa các các cơ quan giám sát ngân hàng, ngân hàng… là yêu cầu quan trọng tiếp theo trong việc áp dụng Basel II hiệu quả. Các ngân hàng trong nước nên chia sẻ kinh nghiệm trong việc áp dụng Basel II với các ngân hàng khác, nhờ đó các vấn đề chính được giải quyết hiệu quả hơn.

2.4.2. Giá trị tham khảo cho Việt Nam

Mặc dù Basel II được xây dựng bởi nhóm 10 nước phát triển và áp dụng đối với các ngân hàng có phạm vi quốc tế nhưng thực tế đã chứng minh các ngân hàng với quy mô nhỏ hơn, tại các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển đều có thể áp dụng Basel II bởi phương pháp tính toán linh hoạt trong Basel II.

Việc áp dụng Basel II tại mỗi quốc gia có tính đặc thù riêng và không có công thức chung cho bất kỳ quốc gia nào. Các quốc gia, khi áp dụng Basel II, phải dựa trên điều kiện, cũng như nhu cầu thực tế của mình để xây dựng lộ trình áp dụng Basel II phù hợp, không nên thực hiện ồ ạt, theo xu hướng và “quá mức”. Mỹ là trường hợp rõ ràng nhất. Mỹ áp dụng Basel II hoàn toàn dựa trên nhu cầu cần thiết và đặc điểm phát triển thị trường tài chính của quốc gia đó.

Do những phương pháp QTRR mà Hiệp định Basel II đưa ra dựa trên nền tảng QTRR đối với hoạt động của các NHTM tiên tiến, Cơ quan giám sát hệ thống ngân hàng Việt Nam nên lựa chọn từng phần nội dung phù hợp để cụ thể hóa thành các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các loại TCTD nước mình. Trong khi các phương pháp tự đánh giá nội bộ trong QTRR tín dụng, các chuẩn mực QTRR tác nghiệp mang tính phức tạp và đòi hỏi NHTM phải có trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức tiên tiến mới áp dụng được, các quy định về tính toán tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trên tài sản có rủi ro, phương pháp chỉ số cơ bản và phương pháp chuẩn hóa thường được phần lớn các quốc gia áp dụng trước

Các ngân hàng thương mại trên thế giới rất linh hoạt trong việc lựa chọn mô hình quản trị rủi ro sao cho phù hợp với điều kiện và nội lực của mình tiến tới mô hình đạt chuẩn mực quốc tế. Sự kết hợp các phương thức quản trị rủi ro rất đa dạng và thay đổi khi điều kiện thị trường thay đổi. Hơn thế nữa, việc xác định mô hình quản trị rủi ro cần phải phù hợp và tương thích với điều kiện cụ thể của từng ngân hàng. Một ngân hàng phát triển trong điều kiện thị trường tài chính yếu kém không thể chuyển sang áp dụng ngay mô hình định lượng vì dữ liệu thông tin trong thị trường đó không thể tốt lên ngay, hoặc không thể áp dụng mô hình kiểm soát kép vì trong thị trường tài chính đang

phát triển, vai trò kiểm soát của thị trường rất mờ nhạt. Nếu xác định mô hình không phù hợp với điều kiện của mình sẽ lãng phí tài nguyên mà không đem lại hiệu quả thiết thực.

Để áp dụng thành công các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II trong hoạt động KSRR của NHNN đối với các hoạt động kinh doanh của các NHTM tại Việt Nam đòi hỏi phải có quyết tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Quốc hội với sự phối hợp của nhiều bộ, ngành và rất nhiều các chủ thể khác liên quan trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chuyên đề này chỉ đề cập đến hai chủ thể chính trực tiếp của hoạt động KSRR theo Basel II đó là NHNN Việt Nam, cụ thể là CQTTGSNH, với tư cách là cơ quan chủ quản, chủ thể kiểm soát và các NHTM, khách thể hay đối tượng của hoạt động kiểm soát. Do đó, các bài học rút ra từ các yếu tố liên quan đến tài chính, công nghệ và kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực... sẽ được nghiên cứu đặt ra cho cả đối tượng cơ quan KSRR, CQTTGSNH thuộc NHNN Việt Nam, và đối tượng chịu sự kiểm soát, các NHTM. Cụ thể như sau:

2.4.2.1. Các bài học rút ra cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Như đã đề cập trên đây, NHNN và CQTTGSNH thuộc NHNN là chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát nhằm KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II. Do vậy, NHNN cần phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cần thiết về năng lực thực hiện kiểm soát, bao gồm: tổ chức bộ máy kiểm soát, nguồn nhân lực, hệ thống công cụ và phương thức KSRR theo Basel II một cách hiệu quả. Những yêu cầu trên có thể được đánh giá thông qua những nội dung hoạt động của NHNN Việt Nam theo các nội dung cơ bản như sau:

Mô hình tổ chức đảm bảo hiệu lực và hiệu quả cho hoạt động của NHNN

Bài học kinh nghiệm từ việc áp dụng Basel II vào KSRR trong hoạt động của các NHTM ở một số nước trên thế giới cho thấy mô hình tổ chức của CQTTGSNH của NHNN Việt Nam cần phải được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả thông qua xác định rõ quyền hạn và tính độc lập, khách quan trong hoạt động. Mặc dù là một đơn vị thuộc NHNN, song CQTTGSNH cần có những cơ chế đặc thù để hạn chế tác động của Hội đồng Thống đốc và những áp lực từ các mục tiêu kinh tế

- xã hội để có thể giám sát và kiểm soát một cách khách quan tình hình rủi ro của các NHTM. Trên cơ sở đó, CQTTGSNH có trách nhiệm thực hiện minh bạch và công khai hóa kết quả thanh tra, giám sát rủi ro của các NHTM và chỉ có như vậy, hiệu lực và hiệu quả thanh tra, giám sát và KSRR mới có thể được đảm bảo.

Cơ sở và nội dung thanh tra, giám sát phải thực sự khoa học

Một trong những mục đích quan trọng bậc nhất của hoạt động thanh tra,

giám sát hoạt động của các NHTM là KSRR, đảm bảo mức rủi ro của các NHTM trong giới hạn cho phép để không gây ra sự đổ vỡ ngân hàng. Yêu cầu của KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II đòi hỏi không chỉ đánh giá được mức độ rủi ro mà còn phải đánh giá chính xác năng lực QTRR của các NHTM. Do vậy, CQTTGSNH cần phải kết hợp sử dụng các chỉ tiêu định lượng và các chỉ tiêu định tính để phản ánh đúng bản chất và mức độ nghiêm trọng của các loại rủi ro trong hoạt động của các NHTM. Một khoản rủi ro tín dụng có thể được phản ánh qua tỷ lệ nợ quá hạn hay nợ khó đòi, song các tỷ lệ này chưa thể cho biết mức độ tổn thất tín dụng của NHTM đó. Điều này chỉ được giải quyết thông qua việc xác định được bản chất và mức độ rủi ro bởi CQTTGSNH. Hơn nữa, CQTTGSNH cần phải xây dựng được khung đo lường năng lực QTRR của các NHTM theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó mới có thể phân loại, xếp hạng các NHTM theo năng lực QTRR, làm cơ sở cho việc kiểm soát và xác định quy mô, phạm vi hoạt động an toàn cho mỗi NHTM. Đây là một trong những điều kiện quan trọng đòi hỏi NHNN Việt Nam phải đổi mới nội dung và cơ sở thanh tra, giám sát qua đó mới đáp ứng yêu cầu KSRR theo Basel II.

Sự đầy đủ, thống nhất và khoa học của hệ thống văn bản pháp luật

Ngoài các văn bản về cơ sở pháp lý cần thiết hoạt động KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II còn đòi hỏi điều kiện về sự đầy đủ, thống nhất và khoa học của các quy định về quản lý, điều tiết hoạt động và đảm bảo an toàn đối với các hoạt động kinh doanh của các TCTD. Điều này là một tất yếu, bởi lẽ hoạt động thanh tra, giám sát cần phải dựa vào các văn bản quy định và pháp luật. Song, để có thể KSRR theo các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II, hệ thống văn bản quy định về hoạt động kinh doanh và đảm bảo an toàn đối với các NHTM giờ đây cần phải được chuẩn hóa từ quá trình xây dựng, ban hành và có nội dung phù hợp với chuẩn mực quốc tế nói chung và của Basel II nói riêng. Yêu cầu này xuất phát từ cả 2 giác độ: (1) hệ thống văn bản quy định tiêu chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CQTTGSNH và đảm bảo tính khách quan, trung thực của các kết luận thanh tra và giám sát; (2) giúp các NHTM dễ dàng nhận thức, vận dụng và tuân thủ các quy định về quản lý, điều tiết và đảm bảo an toàn, đáp ứng yêu cầu về nội dung thanh tra, giám sát.

Các quy định của NHNN về hoạt động của các NHTM triển khai áp dụng Basel II cần phải phù hợp với lộ trình triển khai Basel II của các NHTM này. Ví dụ: việc ban hành các quy tắc tính toán vốn theo phương pháp chuẩn của Basel II không

những phức tạp mà còn rất khó xác định các hệ số rủi ro phù hợp. Vì vậy, NHNN cần ban hành các văn bản có căn cứ khoa học và thực tế về thời hạn áp dụng hay hiệu lực để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM. Tương tự, việc thiết lập các tỷ lệ an toàn cần xác định mức độ phù hợp với mặt bằng các NHTM trong nước và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi áp dụng các tiêu chuẩn trên để khuyến khích động viên các NHTM tích cực và tự giác áp dụng Basel II.

Yêu cầu về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính của NHNN

Nghiên cứu những thách thức đối với việc triển khai áp dụng Basel II trong KSRR của các NHTM tại các quốc gia khác nhau như đã nêu trên đã chỉ ra rằng các chủ thể áp dụng Basel II phải có những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất, công nghệ, kỹ thuật và tài chính là không nhỏ.

Mục tiêu cơ bản khi áp dụng Basel II vào hoạt động KSRR của NHTW đối với các NHTM là đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, tạo lập và củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, góp phần thúc đẩy chu chuyển vốn cho nền kinh tế và giảm thiểu tổn thất xảy ra đối với người gửi tiền. Do vậy, CQTTGSNH của NHNN cần phải có những đầu tư cần thiết, cải thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ để kịp thời thu thập và xử lý thông tin cho việc ra các quyết định về quản lý, điều tiết và KSRR. Cùng với đầu tư cho hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, hệ thống phần mềm xử lý dữ liệu cũng cần phải được cập nhật để đáp ứng những yêu cầu về lượng hóa và đo lường mức độ rủi ro của mỗi NHTM cũng như toàn bộ hệ thống, làm cơ sở cho các quyết định về quản lý, điều tiết và kiểm soát của NHNN. Ngoài ra, hệ thống trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ của NHNN cũng cần phải đáp ứng yêu cầu hỗ trợ cho các NHTM thông qua việc cung cấp thông tin tín dụng chính xác và cập nhật, thực hiện cảnh báo sớm về nguy cơ rủi ro trước những biến động của tình kinh tế - xã hội, tài chính trong nước và quốc tế.

Những yêu cầu về đầu tư về cơ sở vật chất trên đây cùng với những chi phí không nhỏ cho quá trình triển khai áp dụng Basel II như chi phí hoàn thiện bộ máy thanh tra, giám sát, chi phí hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, chi phí chuyên gia, chi phí tập huấn cán bộ thanh tra và giám sát và rất nhiều khoản chi phí khác đòi hỏi NHNN cần có nguồn lực tài chính đáng kể. Đây cũng là cơ sở đề xuất giải pháp về củng cố và nâng cao vị thế tài chính của NHNN Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

Yêu cầu về nguồn nhân lực

Để áp dụng được Basel II vào KSRR, theo kinh nghiệm tại Mỹ cũng như tại Trung Quốc, nguồn nhân lực làm việc tại NHNN cần phải hiểu bản chất các kinh doanh của các NHTM, đồng thời cần phải nắm vững và vận dụng chính xác hệ thống quy định pháp luật về quản lý và bảo đảm an toàn theo Basel II. Do vậy, CQTTGSNH của NHNN phải có được nguồn nhân lực có chất lượng thực sự tốt cả chuyên môn nghiệp vụ và ý thức nghề nghiệp.

Các NHTM thực sự là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận, do vậy tối đa hóa lợi nhuận luôn là mục tiêu quan trọng nhất và nhiều NHTM cố gắng thực hiện các hoạt động kinh doanh để đạt được mục tiêu đó mà có thể “hy sinh” các mục tiêu về an toàn của cá nhân NHTM và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Trách nhiệm và mục tiêu thực hiện KSRR theo Basel II là duy trì các sự an toàn của mỗi NHTM và toàn bộ hệ thống. Như vậy, toàn bộ rủi ro của từng NHTM và toàn bộ hệ thống phải được nhận biết, đo lường, đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ chính là lý do đòi hỏi nguồn nhân lực giám sát phải có năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp và khả năng tuân thủ cao.

Như đã đề cập trên đây, CQTTGSNHNN không chỉ đo lường và KSRR mà còn phải cung cấp thông tin và những cảnh báo sớm về rủi ro giúp các NHTM chủ động có đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro, bao gồm vốn, tăng cường năng lực quản trị, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và công tác hoạch toán kế toán. Như vậy, mỗi cán bộ, chuyên viên làm việc trong CQTTGSNH chính là các chuyên gia, vừa chuyên sâu đồng thời phải có kiến thức tổng hợp. Ngoài ra, đội ngũ nguồn nhân lực của CQTTGSNH đồng thời có khả năng kết nối, hợp tác tốt với các cơ quan giám sát tài chính ở trong nước và nước ngoài để giám sát các hoạt động tài chính và nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong các hoạt động ngân hàng quốc tế.

2.4.2.2. Bài học rút ra về kiểm soát rủi ro trong hoạt động thương mại của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Để vận dụng KSRR theo Basel II tại Việt Nam một cách hiệu quả, với tư cách là đối tượng chịu sự kiểm soát, các NHTM cần đáp ứng những yêu cầu sau để hợp tác và cùng với NHNN triển khai thực hiện một cách hiệu quả:

Thống nhất về nhận thức và hành động của các NHTM

Kinh nghiệm từ quản trị và điều hành tại Thái Lan, toàn bộ cán bộ chuyên viên của các NHTM, từ lãnh đạo, quản trị điều hành, cán bộ quản lý và các chuyên viên cần nhận thức rõ về sự cần thiết và lợi ích của việc triển khai KSRR theo Basel II như là một đòi hỏi tất yếu, khách quan và không thể chậm trễ hơn. Đây là yêu cầu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023