Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kiểm Soát Rủi Ro Theo Basel Ii Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Ngân Hàng Thương Mại

thuận tiện hơn. Hai là, phương pháp này cho phép tiếp cận theo hướng bottom-up đối với những bất ổn của tổ chức tài chính và từ đó phát hiện ra nguồn gốc của những rủi ro tiềm tàng. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy chất lượng của ST dựa theo tài khoản kế toán phụ thuộc rất nhiều vào độ chi tiết, chính xác và sẵn có của số liệu.

Dữ liệu đầu vào bao gồm:

Thứ nhất, dữ liệu đầu vào sơ cấp: Các dữ liệu kế toán (bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ma trận liên ngân hàng).

Thứ hai, dữ liệu đầu vào thứ cấp: Khả năng tổn thất (LGD), tỷ lệ nợ xấu, phân loại khách hàng (đối với rủi ro lãi suất); và Dữ liệu thị trường (giá vốn, tỷ giá, lãi suất, biến động giá tài sản) để ước lượng các cú sốc.

Quy trình thực hiện:

Bảng 2.3. Quy trình ST đối với từng loại rủi ro

Stress Test đối

với loại rủi ro

Mô tả quy trình

Rủi ro tín dụng

Phương pháp dựa trên mức dự phòng

- Bước đầu tiên trong việc đo lường RRTD là xác định điểm khởi đầu (baseline) về vốn của ngân hàng thông qua tính toán giá trị kinh tế thực của nó bằng cách khấu trừ những khoản mục không được xem là vốn… đồng thời xem xét đến việc TCTD trích đủ dự phòng đủ hay không cũng như đánh giá lại giá trị của các tài sản đảm bảo. Trong mô hình này, trước khi tiến hành thử sức căng nhóm nghiên cứu đã điều chỉnh lại dự phòng rủi ro (DPRR) phải trích của các TCTD sau khi đánh giá lại tài sản đảm bảo (TSĐB).

- Nguyên tắc tiến hành: Cơ chế tác động của các cú sốc đều thông qua việc tính toán sự thay đổi của DPRRTD, từ đó xác định mức độ ảnh hưởng tới LNST và vốn tự có của các ngân hàng. Trước khi thực hiện các cú sốc đối với RRTD, cần điều chỉnh lại DPRRTD thông qua việc đánh giá lại tài sản thế chấp. Chúng ta cần điều chỉnh lại giá trị tài sản đảm bảo cho phù hợp là do (1) Giá trị TSBĐ thường được các ngân hàng định giá cao hơn so với giá trị trường hoặc giữ nguyên giá trị ban đầu để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro. Do đó nhiều ngân hàng không thường xuyên thực hiện đánh giá lại TSBĐ hoặc chỉ áp dụng một tỷ lệ khấu trừ nhất định. (2) Giá trị TSBĐ khó có thể được định giá đúng và chính xác theo giá thị trường khi thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản còn chưa minh bạch và Việt Nam chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu giá bất động sản và chỉ số giá bất động sản.

- Nhóm nghiên cứu đưa ra các cú sốc trực tiếp liên quan đến nợ xấu

của các TCTD, từ đó tác động lên DPRRTD, lợi nhuận sau thuế, qua đó ảnh hưởng đến vốn tự có, CAR của các ngân hàng. Cụ thể, tiến hành ST

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 8


Stress Test đối

với loại rủi ro

Mô tả quy trình


tín dụng qua 6 cú sốc:

3 cú sốc đối với toàn danh mục cho vay của TCTD bao gồm:

(1) Một phần nợ nhóm 1&2 chuyển thành nợ xấu

(2) Có sự dịch chuyển giữa các nhóm nợ

(3) Giá trị TSBĐ là BĐS giảm giá

3 cú sốc đối với một số danh mục cho vay bao gồm:

(1) Nợ xấu phát sinh tăng đối với một số danh mục cho vay theo ngành kinh tế

(2) Nợ xấu phát sinh tăng đối với một số loại hình cho vay rủi ro cao

(3) Nợ xấu phát sinh tăng đối với một số khoản cho vay khách hàng lớn

Rủi ro lãi suất

Phân tích khe hở định giá lại (Repricing-Gap Model)

- Xác định khe hở lãi suất tại các kỳ hạn khác nhau và tính toán khe hở cộng dồn.

- Mức thay đổi thu nhập lãi suất ròng của nhóm kỳ hạn i được tính như sau:


trong đó, là chênh lệch tài sản có và tài sản nợ nhóm kỳ hạn i; là độ thay đổi lãi suất.

Mức thu nhập lãi suất ròng của toàn bộ danh mục được xác định theo 2 cách:

(1)

trong đó, là cộng dồn chênh lệch tài sản có và tài sản nợ các nhóm kỳ hạn, là mức thay đổi lãi suất nói chung. Hoặc:

Rủi ro tỷ giá Phương pháp trực tiếp Đặt F là trạng thái ngoại tệ mở ròng 4

Rủi ro tỷ giá

Phương pháp trực tiếp

Đặt F là trạng thái ngoại tệ mở ròng, C là vốn, là tài sản rủi ro quy đổi, là tỷ giá. Tác động của cú sốc tỷ giá trực tiếp lên tỷ lệ vốn so với tài sản rủi ro quy đổi được biểu diễn bằng:

trong đó tỷ lệ phản ánh mức độ thay đổi của vốn và tài sản quy đổi 7


trong đó, tỷ lệ , phản ánh mức độ thay đổi của vốn và

tài sản quy đổi rủi ro. Trong trường hợp đặc biệt = 0 nếu tài sản quy đổi rủi ro không thay đổi.

Rủi ro thanh khoản

Phương pháp

Đưa ra các giả định bao gồm: tỷ lệ tiền gửi khách hàng bị rút đột ngột


Stress Test đối

với loại rủi ro

Mô tả quy trình

thời điểm

trong 1 ngày; tỷ lệ tài sản có thể bán trong ngày để đáp ứng nhu cầu chi trả…

Sau đó tính toán dòng tiền ròng (= dòng tiền vào – dòng tiền ra) trong từng ngày nếu không có sự hỗ trợ nguồn vốn từ bên ngoài. Xác định sau ngày thứ mấy (kể từ ngày giả định khách hàng rút tiền gửi đột ngột)

dòng tiền ròng <0, TCTD mất khả năng thanh toán.

Rủi ro lan truyền

ST rủi ro liên ngân hàng thuần

Rủi ro lan truyền liên ngân hàng thuần đánh giá mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi một ngân hàng bị đổ vỡ và không có khả năng thanh toán các khoản nợ trên liên ngân hàng, ảnh hưởng lan truyền đến các ngân hàng khác.

Thiết lập ma trận tín dụng liên ngân hàng ròng (matrix of net interbank credits), sau đó chuyển sang ma trận rủi ro liên ngân hàng ròng (matrix of net interbank exposures).

Tiến hành thử sức căng đối với từng trường hợp, mỗi trường hợp là một cú sốc tương ứng với một TCTD ở dòng (trong ma trận rủi ro liên ngân hàng) đổ vỡ và không có khả năng thanh toán các khoản nợ trên liên ngân hàng. Từ đó đưa ra kết quả ở vòng 1 liệu có ngân hàng nào ở cột bị đổ vỡ theo hay không (vốn tự có <0).

Nếu có ngân hàng bị đổ vỡ ở vòng 1 thì mô hình tiếp tục chạy vòng 2. Ở vòng thứ 2 sẽ xem xét sự ảnh hưởng lan truyền của những ngân hàng bị đổ vỡ sau vòng thứ 1 đến các ngân hàng khác trong hệ thống.

Phép thử sức căng chỉ dừng lại sau một số vòng nhất định khi mà không có sự đổ vỡ mới nào xảy ra nữa.


Kết quả: Các tỷ lệ về vốn; Các tỷ lệ về thanh khoản; Số lượng/tỷ lệ các ngân hàng không đáp ứng được các quy định tối thiểu.

Tần suất: quý/6 tháng/năm

Các loại phép thử: phân theo danh mục rủi ro, cụ thể:

Một là, rủi ro tín dụng: ST đối với RRTD nhằm ước lượng các tổn thất của ngân hàng trước những biến cố xấu (các kịch bản giả định) xảy ra trong danh mục tín dụng, từ đó tính toán tác động lên bảng cân đối tài sản và cuối cùng là tác động lên mức đủ vốn của ngân hàng. Quá trình thực hiện thử sức căng đối với RRTD nhằm ước lượng tổn thất của ngân hàng trước những cú sốc tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng danh mục tín dụng. Mô hình sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, đưa ra các cú sốc trực tiếp liên quan đến nợ xấu của các ngân hàng, ảnh hưởng của các cú sốc được thể hiện qua sự thay đổi CAR sau mỗi cú sốc so với CAR ban đầu.

Hai là, rủi ro lãi suất: ST đối với rủi ro lãi suất thường được xem xét đến tác động trực tiếp và gián tiếp của lãi suất đối với hoạt động của ngân hàng.

Tác động trực tiếp của lãi suất là tác động gây ra sự biến động trực tiếp đối với tài sản, nguồn vốn và khoản mục ngoại bảng nhạy cảm với lãi suất. Ngoài ra, tác động trực tiếp của lãi suất cũng là việc thay đổi giá trị tài sản của ngân hàng do sự thay đổi của dòng tiền trong tương lai tại các mức lãi suất khác nhau. Xác định khe hở lãi suất tại các kỳ hạn khác nhau và tính toán khe hở cộng dồn.

Tác động gián tiếp của lãi suất là sự ảnh hưởng của lãi suất đến khả năng trả nợ của khách hàng. Rủi ro này xảy ra khi lãi suất danh nghĩa của khoản vay tăng lên làm tăng nghĩa vụ trả nợ của khách hàng và làm giảm khả năng trả nợ, từ đó có thể ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của khoản vay.

Ba là, rủi ro tỷ giá: Rủi ro tỷ giá là rủi ro mà những thay đổi về tỷ giá có thể tác động tới giá trị về tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến các khoản mục ngoại bảng. Có 3 loại rủi ro tỷ giá: (i) rủi ro tỷ giá trực tiếp (xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái ngoại tệ mở ròng; (ii) rủi ro tỷ giá gián tiếp (khi khách hàng vay hoặc đối tác của ngân hàng có trạng thái ngoại tệ mở ròng); (iii) rủi ro thanh toán ngoại tệ (khi xuất hiện khe hở thanh khoản về ngoại tệ). Trong phạm vi khuyến nghị của IMF, nhóm nghiên cứu xem xét ST theo phương pháp rủi ro tỷ giá trực tiếp và gián tiếp:

Rủi ro tỷ giá trực tiếp xảy ra khi TCTD có trạng thái ngoại tệ ròng. Trạng thái ngoại tệ ròng xuất hiện khi các khoản mục tài sản có/dòng tiền vào bằng ngoại tệ mất cân bằng với tài sản nợ/dòng tiền ra theo ngoại tệ đó. Trạng thái ngoại tệ ròng có thể là trạng thái đoản (khi tài sản nợ/dòng tiền ra ngoại tệ lớn hơn tài sản có/dòng tiền vào ngoại tệ) hoặc trạng thái trường (khi tài sản có/dòng tiền vào ngoại tệ lớn hơn tài sản nợ/dòng tiền ra ngoại tệ). Như vậy, rủi ro tỷ giá xảy ra khi ngoại tệ tăng giá đối với TCTD có trạng thái ngoại tệ đoản và khi ngoại tệ giảm giá đối với ngân hàng có trạng thái ngoại tệ trường.

Bốn là, rủi ro thanh khoản: ST đối với thanh khoản thường tập trung chủ yếu vào rủi ro thanh khoản thị trường và sử dụng dữ liệu cơ sở chủ yếu trên báo cáo tài chính của ngân hàng và các dữ liệu giá trị thị trường tài sản làm dữ liệu thứ cấp.

Năm là, rủi ro lan truyền: Rủi ro lan truyền là rủi ro xảy ra cho hệ thống ngân hàng khi một tổ chức tài chính ảnh hưởng lớn trên thị trường bị mất khả năng thanh toán và có thể gây hiệu ứng đổ vỡ sang các ngân hàng khác. Rủi ro lan truyền liên ngân hàng được chia thành hai loại: rủi ro lan truyền liên ngân hàng thuần (Pure

interbank contagion risk) và rủi ro lan truyền liên ngân hàng vĩ mô ("Macro" interbank contagion risk).

Rủi ro lan truyền liên ngân hàng thuần đánh giá mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi một ngân hàng bị đổ vỡ và không có khả năng thanh toán các khoản nợ trên liên ngân hàng, ảnh hưởng lan truyền đến các ngân hàng khác.

Rủi ro lan truyền liên ngân hàng vĩ mô đánh giá mức độ ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng khi có một số ngân hàng đồng thời bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ các cú sốc vĩ mô dẫn đến đổ vỡ và không có khả năng thanh toán các khoản nợ trên liên ngân hàng, từ đó ảnh hưởng lan truyền đến các ngân hàng khác.

2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát rủi ro theo Basel II của Ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương mại

Để hệ thống QTRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM có thể vận hành hiệu quả, thông suốt cần đảm bảo các yếu tố từ phía ngân hàng trung ương và các yếu tố từ nội tại các ngân hàng thương mại. Một số nhân tố cần được xem xét để QTRR trong ngân hàng theo Basel II có khả năng thực hiện và đạt kết quả cao như sau:

2.3.1. Nhân tố từ phía Ngân hàng Trung ương

Kế hoạch triển khai KSRR theo Basel II

Việc triển khai và giám sát theo Basel II là một quá trình liên tục, thường xuyên, đầy đủ và thống nhất trên cơ sở phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia và hệ thống tài chính ngân hàng của quốc gia đó. Áp dụng Basel II không thể là công việc “một sớm một chiều”, hay công việc của chỉ riêng một cá nhân, một bộ phận mà cần sự tham gia của toàn hệ thống từ cấp NHTW tới các cấp NHTM trong một khoảng thời gian dài và liên tục.

Thời điểm triển khai cũng như lộ trình áp dụng có tác động không nhỏ tới hiệu quả áp dụng Basel II. Cần phải có lộ trình khả thi, áp dụng tùy điều kiện kinh tế từng giai đoạn, thực hiện báo cáo đánh giá tác động của Basel II tới vốn, kiểm tra sức chịu đựng của các tổ chức tín dụng để ước lượng nhu cầu vốn trong từng hoàn cảnh [81].

Khung thể chế về kiểm soát ngân hàng

Khung thể chế và pháp luật về kiểm soát ngân hàng đầy đủ và phù hợp sẽ xác định được mục tiêu giám sát của cơ quan giám sát NHTW một cách rõ ràng; một chính sách lành mạnh bền vững sẽ không gây ảnh hưởng bất lợi cũng như gia tăng rủi ro và cản trở hoạt động kinh doanh của NHTM trong tiến trình áp dụng các chuẩn mực quốc tế theo Basel II.

Khuôn khổ pháp lý các thị trường liên quan chưa đồng bộ thì việc áp dụng Basel II sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Bản thân những yêu cầu trong Basel II được xây dựng và thiết kế dựa trên kinh nghiệm của các thị trường phát triển vì vậy sẽ có những nội dung không phù hợp với thị trường đang phát triển. Do đó khi áp dụng vào các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển cần phải có sự điều chỉnh [117].

Kỷ luật thị trường và mức độ độc lập của cơ quan giám sát ngân hàng

Kỷ luật thị trường và mức độ độc lập có hiệu quả xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan giám sát và ngân hàng, đảm bảo tính minh bạch cho hoạt động ngân hàng và cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

2.3.2. Môi trường kinh tế xã hội

Các yếu tố khách quan từ môi trường kinh tế vĩ mô làm thị trường tài chính ngân hàng thay đổi nhanh, chịu tác động lớn từ bên ngoài do quá trình hội nhập khiến việc dự báo các diễn biến liên quan đến RRTD trở nên khó khăn và kém chính xác hơn, ví dụ như tỷ giá, lãi suất, các cú sốc khiến dự báo càng khó khăn và phức tạp [67. tr. 69].

Vấn đề khủng hoảng kinh tế không chỉ kéo dài nhiều năm mà có tác động to lớn, thậm chí không thể tính toán được. Đó chính là sự sụp đổ của các trung gian tài chính, những ngân hàng đầu tư lớn đã hoạt động hàng trăm năm và có tác động đến nền tài chính toàn cầu.

Triển khai Basel II trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế với nhiều biến động trong hệ thống tài chính ngân hàng, nợ xấu tăng cao sẽ khó khăn hơn do yêu cầu về vốn tăng cao. Trong bối cảnh này, để có thể áp dụng Basel II hiệu quả cần phải có lộ trình khả thi, áp dụng tuỳ điều kiện kinh tế từng giai đoạn, thực hiện báo cáo đánh giá tác động của Basel II tới vốn, kiểm tra sức chịu đựng của các tổ chức tín dụng để ước lượng nhu cầu của vốn trong từng hoàn cảnh.

2.3.3. Nhân tố từ hoạt động của ngân hàng thương mại

Hệ thống dữ liệu thông tin về hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng

Việc thu thập và lưu trữ dữ liệu là rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong triển khai thực hiện Basel II của tất cả các NHTM. Các NHTM phải đáp ứng cơ sở liệu dữ liệu đã được kiểm toán một cách đầy đủ và phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực tiêu chuẩn chất lượng dữ liệu của Basel II. Thực tế được quan sát ở hầu hết các nước khi triển khai áp dụng Basel II, dữ liệu hiện có của các NHTM thường không đáp ứng được yêu cầu về dữ liệu của Basel II và các NHTM đều phải chấp nhận chi phí tài chính và thời gian thực không nhỏ để chuẩn hóa hệ thống dữ

liệu và các thông tin theo yêu cầu của Basel II. Đối với các NHTM ở các nước đang phát triển, do sự khác biệt về môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh, hệ thống thông tin dữ liệu thường không đầy đủ, chưa thống nhất và đặc biệt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Do vậy, đây là chính một thách thức lớn đầu tiên của các NHTM ở các nước này trước yêu cầu triển khai áp dụng Basel II.

Hệ thống phần mềm xử lý dữ liệu và định lượng rủi ro

Tiếp theo những thách thức về sự chuẩn hóa hệ thống thông tin dữ liệu là khả năng xử lý thông tin phục vụ cho việc giám sát và quản lý theo Basel II: các NHTM cần phải có được những điều kiện cơ sở vật chất, đặc biệt về hạ tầng công nghệ phù hợp. Đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Khi các NHTM chưa có các điều kiện đầy đủ về trang thiết bị kỹ thuật và hệ thống phần mềm để xử lý dữ liệu để có thể lượng hóa mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh thì không thể áp dụng Basel II để kiểm soát ngân hàng. Những hạn chế về trang thiết bị cần thiết và các phần mềm tương ứng sẽ không thể áp dụng các mô hình định lượng để xác định các chỉ số tài chính, và không thể ra quyết định kinh doanh đúng đắn trên cơ sở đó. Hơn nữa, sự đáp ứng về cơ sở vật chất và công nghệ của các NHTM còn là điều kiện để cho cán bộ ngân hàng có thể có thu thập và xử lý hệ thống thông tin, dữ liệu cập nhật cho phép thực hiện theo dõi thường xuyên, dự báo chính xác và đầy đủ về xu hướng vận động của nền kinh tế. Từ đó có thể đo lường về mức độ rủi ro và xây dựng các biện pháp để chủ động và kịp thời xử lý. Ngoài ra, công nghệ hiện đại còn góp phần làm tăng tính thông suốt của hệ thống thông tin trong nội bộ ngân hàng và kết nối ngân hàng với thị trường tài chính trong nước và quốc tế, cho phép thực hiện các nghiệp vụ giao dịch kinh doanh và phòng chống rủi ro một cách hiệu quả nhất.

Chất lượng nguồn nhân lực để áp dụng Basel II

Chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả nguồn nhân lực làm việc tại các NHTM và nguồn nhân lực làm việc tại NHTW và các cơ quan giám sát ngân hàng (CQGSNH), cũng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tới sự thành công của việc triển khai áp dụng Basel II đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ.

Chất lượng nguồn nhân lực làm việc tại NHTW và các CQGSNH trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng KSRR của các NHTM theo Basel II trên giác độ thu thập và xử lý hệ thống dữ liệu từ các NHTM, xử lý hệ thống dữ liệu, diễn giải các chỉ tiêu tài chính định lượng giúp cho việc ra các quyết định giám sát của NHTW cũng như các CQGSNH theo các quy định của Basel II. Nguồn nhân lực

làm việc tại các cơ quan này cần đáp ứng các yêu cầu không chỉ nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa và nội dung của Basel II mà còn phải có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các NHTM theo các nguyên tắc và chuẩn mực của Basel II. Đây là một thách thức không nhỏ, đặc biệt ở các nước mà cơ chế giám sát ngân hàng được xây dựng trên cơ sở các quy định mang tính hành chính, chủ yếu dựa vào các báo cáo của các NHTM, các tiêu chí định tính hoặc định lượng.

Chất lượng của nguồn nhân lực làm việc tại các NHTM lại có được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến năng lực QTRR của mỗi NHTM và toàn bộ thị trường ngân hàng. Nguồn nhân lực tại các NHTM là yếu tố quyết định đến năng lực kinh doanh và QTRR của các NHTM theo các chuẩn mực của Basel II. Nguồn lực này bao gồm cả ban lãnh đạo, đội ngũ cán bộ QTRR và toàn bộ cán bộ công nhân viên tham gia vào hoạt động kinh doanh của NHTM. Thứ nhất, QTRR, nhất là QTRR theo Basel II, chỉ có thể được thực hiện tốt xuất phát từ quan điểm, sự ưu tiên và được quyết định bởi ban lãnh đạo ngân hàng. Thứ hai, là chất lượng chuyên môn, tính chuyên nghiệp và ý thức nghề nghiệp của cán bộ nhân viên trực tiếp vận hành các nghiệp vụ kinh doanh và QTRR luôn là những người quyết định đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh, các tác nghiệp cụ thể trong các hoạt động kinh doanh nói chung và quy trình QTRR nói riêng. Từ sàng lọc lựa chọn khách hàng, nghiên cứu phát triển sản phẩm và kênh phân phối đến nhận biết, đo lường, kiểm soát và xử lý rủi ro theo quy định của Basel II đều do đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng thực hiện. Để các NHTM có thể tự quản trị theo Basel II, đội ngũ cán bộ nhân viên của các NHTM cần phải có đủ năng lực vận hành tác nghiệp, sử dụng công nghệ hiện đại để thu thập và xử lý thông tin, lượng hóa các chỉ tiêu tài chính và rủi ro phục vụ lãnh đạo ra quyết định. Một cách ngắn gọn, việc áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II trong hoạt động kinh doanh và QTRR, chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM cần phải được tiêu chuẩn hóa và để thực hiện điều này, các NHTM cần phải chi phí những khoản đầu tư không nhỏ để đào tạo lại và chuẩn hóa nguồn nhân lực.

Nguồn lực tài chính cho việc áp dụng Basel II

Để triển khai áp dụng thành công Basel II, các NHTM phải vượt qua tất cả những khó khăn và thách thức nêu trên đây, do đó phải chấp nhận những khoản chi phí tài chính rất lớn và đây là thách thức hết sức quan trọng. Không có nguồn lực tài chính đủ lớn, NHTW, các CQGSNH và các NHTM không thể đầu tư trang thiết bị công nghệ, không thể đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo việc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023