xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, thống nhất, công khai minh bạch, phù hợp với các yêu cầu của Basel II. Các NHTM không thể thực hiện QTRR theo Basel II, trong khi NHTW và các CQGSNH không có đủ các điều kiện để giám sát rủi ro của các NHTM theo các quy định của Hiệp ước này.
Khi triển khai áp dụng Basel II, chi phí thực hiện các chuẩn mực tài chính và phi tài chính đối với các NHTM, NHTW và các CQGSNH là rất lớn. Đối với NHTW và các cơ quan CQGSNH, ngoài nhứng khoản chi phí hành chính (ban hành các quy định, cơ sở pháp lý cho việc giám sát, quy trình tác nghiệp...) sẽ còn bao gồm những khoản chi phí đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ thanh tra giám sát, chi phí vận hành các nghiệp vụ giám sát theo phương thức và các tiêu chuẩn mới. Đối với các NHTM, việc triển khai áp dụng QTRR theo Basel II thực sự là một dự án rất lớn và chi phí cần có để trang trải cho tất cả quá trình, bao gồm từ việc đánh giá thực trạng về khả năng áp dụng, xây dựng các phương án áp dụng đến chi phí thực hiện sau khi đã đánh giá và lựa chọn phương án áp dụng. Không chỉ phải chi phí để thiết lập lại cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin phù hợp, nhiều NHTM còn phải đổi mới mô hình tổ chức, tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực, tăng vốn điều lệ và chấp nhận chi phí cao hơn rất nhiều khi tuân thủ các quy định QTRR theo Basel II.
Như vậy, có thể nói rằng chi phí tài chính cho việc triển khai áp dụng Basel II đối với cả phía thực hiện giám sát (NHTW và các CQGSNH) cũng như đối với thực hiện QTRR của các NHTM là rất lớn. Điều này sẽ làm cho chi phí hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tăng cao và đây là một thách thức rất lớn đối với nhiều nước, làm giảm động lực triển khai áp dụng Basel II. Trên thực tế ở một số nước, chỉ những NHTM lớn, có tiềm lực tài chính mạnh mới có thể triển khai và tuân thủ áp dụng Basel II.
2.4. Kinh nghiệm kiểm soát rủi ro theo Basel II tại một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm kiểm soát rui ro theo Basel II của một số quốc gia trên thế giới
2.4.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Kết quả đạt được
Ở Mỹ, các ngân hàng hoạt động trong một hệ thống quản lý ngân hàng kép, nghĩa là cả chính quyền liên bang và tiểu bang đều có quyền kiểm soát đối với ngân hàng. Hệ thống này được thiết lập nhằm giúp chính quyền tiểu bang kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động ngân hàng trong phạm vi lãnh thổ của mình, đồng thời đảm bảo
cho các ngân hàng được chính quyền tiểu bang và cộng đồng địa phương đối xử công bằng khi mở rộng hoạt động sang các bang khác nhau. Các cơ quan quản lý hệ thống tài chính quan trọng của Chính phủ Mỹ là Cục kiểm soát tiền tệ, Hệ thống dự trữ liên bang, Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang, Bộ Tư pháp, Ủy ban chứng khoán và hối đoái cũng có vai trò quản lý ngân hàng nhưng kém quan trọng hơn, trong khi đó Hội đồng ngân hàng bang là cơ quan quản lý cấp bang cao nhất đối với ngân hàng Mỹ.
Cơ quan giám sát hoạt động NHTM của Mỹ quy định rằng, chỉ có những ngân hàng có hoạt động kinh doanh tài chính quốc tế ở một quy mô nhất định thì mới yêu cầu áp dụng Basel II. Trên thực tế, các ngân hàng này chiếm tới 99% tổng tài sản có tại nước ngoài và 2/3 tổng tài sản có trong nước của toàn bộ ngành ngân hàng Hoa Kỳ. Những ngân hàng nhỏ hơn, với bảng cân đối tài khoản đơn giản không nhất thiết phải xây dựng một hệ thống QTRR phức tạp và tốn kém như quy định trong hiệp định này. Điều này không trái với quy định trong hiệp định Basel II, vì Ủy ban Basel quy định Hiệp định này chỉ áp dụng đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh quốc tế lớn.
Có thể bạn quan tâm!
- Mục Đích Của Kiểm Soát Rủi Ro Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Hoạt Động Của Ngân Hàng Trung Ương Theo Basel Ii
- Hệ Số Β Trong Phương Pháp Chuẩn Đối Với Rủi Ro Hoạt Động
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kiểm Soát Rủi Ro Theo Basel Ii Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Ngân Hàng Thương Mại
- Thách Thức Ngân Hàng Trung Quốc Đối Mặt Khi Thực Hiện Basel Ii
- Khái Quát Về Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Giai Đoạn 2010 - 2017
- Thực Trạng Rủi Ro Và Quản Trị Rủi Ro Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Giai Đoạn 2010 - 2017
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Quy trình và thời gian thực hiện Basel II tại Mỹ chậm hơn nhiều so với khi thực hiện Basel I. Cơ quan ngân hàng liên bang ra quyết định áp dụng Basel II vào cuối năm 2007, nhưng tới tháng 4/2008, những quy định này mới bắt đầu có hiệu lực.
Đối với phương pháp tính an toàn vốn (Christophe, 2013), các ngân hàng có quy mô lớn tại Mỹ không được phép tự lựa chọn phương pháp áp dụng, mà yêu cầu bắt buộc áp dụng cả 2 phương pháp nâng cao là phương pháp tự đánh giá nội bộ nâng cao (Internal Rating Based Approach) đối với RRTD và phương pháp đo lường tiên tiến (Advanced Measurement Approach) đối với RRTN. Các ngân hàng khác có thể áp dụng phương pháp nâng cao hoặc lựa chọn tiếp tục thực hiện theo Basel I. Tuy nhiên, ngân hàng nào đã áp dụng phương pháp nâng cao theo trụ cột 1 của Basel II phải áp dụng các tiêu chuẩn của trụ cột 2 và trụ cột 3. Tuy nhiên tại Mỹ, phương pháp chuẩn hóa và cơ bản không được áp dụng.
Để quản trị rủi ro theo Basel II, các ngân hàng Mỹ được yêu cầu phải có sự phân định rõ chức năng các ban trong cơ cấu tổ chức:
Ban lãnh đạo: Đây là bộ phận có quyền quyết định cao nhất. Ban lãnh đạo phân bổ nguồn vốn, điều hành hoạt động của cả ngân hàng. Ban lãnh đạo có trách nhiệm đề ra mức rủi ro của ngân hàng; đề ra những mục tiêu chiến lược và các quy định chung sử dụng trong toàn ngân hàng; kiểm tra lại việc thực hiện của các cán bộ
tín dụng nếu thấy nghi ngờ có khả năng gây ra thiệt hại về vật chất, hoặc ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng.
Ban hoạch định chính sách: Ban này phải chịu trách nhiệm trong việc duy trì một chính sách quản trị rủi ro hoàn chỉnh, có hiệu quả; tham gia vào việc lập kế hoạch đầu tư gián tiếp, dự đoán những tổn thất; thiết lập các chính sách và tiêu chuẩn phù hợp với luật, với quy định chung của ngân hàng; xem xét và chỉnh sửa chính sách nếu xét thấy chúng có thể gây ra rủi ro bất thường; xem xét trao cho những cán bộ có đủ năng lực; lập các báo cáo về đầu tư gián tiếp; tập trung đánh giá chất lượng các thông tin rủi ro, tiến trình xử lý rủi ro đối với tất cả các trường hợp vi phạm chính sách, quy định cho phép.
Ban đánh giá rủi ro: Nhân viên của ban này ít nhất phải có 10 năm làm việc về nghiệp vụ tín dụng và luân phiên nhau làm trong ban theo yêu cầu phát triển nghiệp vụ. Ban này thực hiện việc đánh giá tình hình kinh doanh của các đơn vị và cung cấp thông tin rủi ro trong đầu tư gián tiếp; đánh giá sự đánh giá độc lập về các hoạt động tín dụng, về các chính sách, sự thi hành và các thủ tục trong quản trị tín dụng; phối hợp hoạt động với giám sát viên và kiểm toán viên độc lập.
Khó khăn và thách thức
Một số vấn đề được đặt ra khi thực hiện Basel II tại Mỹ: (1) Vì sao tiến độ thực hiện Basel II Mỹ lại diễn ra chậm; (2) Vì sao Mỹ áp dụng Basel II theo lộ trình từng phần (3) Vì sao CQGS hoạt động NHTM Mỹ hạn chế đối tượng áp dụng trong khi thị trường tài chính Mỹ phát triển tương tự các quốc gia châu Âu và một số quốc gia phát triển Châu Á như Nhật, Úc, …
Lý do được các CQGS hoạt động ngân hàng nêu ra bao gồm:
Thứ nhất, ngân hàng với quy mô lớn mới đủ nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của phương pháp đo lường vốn nâng cao. Do vậy, chỉ các ngân hàng này mới có thể áp dụng phương pháp nâng cao để tăng cường QTRR cũng như tăng cường an toàn vốn.
Thứ hai, ngân hàng với quy mô nhỏ không có đủ nguồn lực cũng như sự tăng trưởng như các ngân hàng có quy mô lớn thì khó có thể áp dụng theo các phương pháp nâng cao.
Thứ ba, CQGSNH không cho rằng phương pháp chuẩn hoá hay phương pháp cơ bản theo Basel II sẽ giúp ngân hàng quy mô nhỏ đáp ứng tốt hơn về an toàn vốn so với yêu cầu về vốn hiện hành - là những yêu cầu vốn trên cơ sở kết hợp theo Basel I. Hơn nữa, các ngân hàng nhỏ không có hoạt động kinh doanh quốc tế, nên không phải là đối tượng áp dụng theo Basel II.
Thứ tư, việc áp dụng phương pháp nâng cao để tính toán mức an toàn vốn đối với các ngân hàng lớn cũng mất một thời gian khá dài trước khi quy định được ban hành một cách chính thức và có hiệu lực. Nguyên nhân là do việc áp dụng phương pháp nâng cao sẽ làm sụt giảm đáng kể mức vốn yêu cầu so với áp dụng theo Basel I.
Ngoài những nguyên nhân từ phía CQGS nêu trên, một số nguyên nhân khác khiến cho việc thực hiện Basel II tại Mỹ trở nên khó khăn và phức tạp như:
Một là, các quy định của Basel II có thể xung đột với các quy định quốc gia hiện hành, gây khó khăn cho hệ thống tài chính ngân hàng.
Hai là, Cục dữ trữ liên bang Mỹ đề xuất xây dựng Basel II và đi đầu trong đàm phán bản Hiệp ước này. Tuy nhiên, khi thực hiện theo Basel II thì các nhà quản lý là người tham gia và chịu trách nhiệm chủ yếu. Điều này dẫn tới xung đột trong mục tiêu chính sách với việc quản lý giám sát ngân hàng.
Ba là, Cục dữ trữ liên bang Mỹ luôn quan tâm đến việc quy chuẩn hóa các quy định về vốn nhằm đảm bảo giám sát hiệu quả đối với các ngân hàng có quy mô lớn và tăng cường sự phù hợp với chính sách quốc tế, mục tiêu của các nhà quản lý.
2.4.1.2. Kinh nghiệm của Pakistan
Kết quả đạt được
Ngân hàng nhà nước Pakistan đã đưa ra lộ trình cho sự chuyển đổi của hệ thống ngân hàng để áp dụng các chuẩn mực theo Basel II (Seema Siddiqua Hai, Safia Qamar Minhaj, Roohi Ahmed, 2007). Các ngân hàng được yêu cầu áp dụng Basel II như sau:
Phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn (Standardized Approach) đối với rủi ro tín dụng và RRHĐ từ ngày 01/01/2008.
Phương pháp tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ (Internal Rating Based Approach-IRBA) từ ngày 01/01/2010.
Để đảm bảo quá trình chuyển đổi sang Basel II một cách suôn sẻ, đối với phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn cần thử nghiệm khoảng 1,5 năm bắt đầu từ ngày 01/07/2006 và cần 2 năm bắt đầu từ 01/01/2008 đối với phương pháp tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ.
Kế hoạch nội bộ của ngân hàng về thực hiện Basel II sẽ được xem xét và giám sát liên tục bởi NHNN trong suốt giai đoạn tiền triển khai cũng như trong thời gian thử nghiệm.
Khó khăn và thách thức
Basel II được mô tả như một cuộc cách mạng đổi mới về lĩnh vực quản lý rủi ro. Tuy nhiên, ngược lại với Basel I, khuôn khổ sửa đổi là khá phức tạp và việc thực hiện là một thách thức với không chỉ đối với cơ quan quản lý mà đối với cả đơn vị thực hiện (Leeladhar, 2006).
Thứ nhất, sự thành công của Basel II đòi hỏi phải có một hệ thống tài chính mạnh và phát triển. Quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế chỉ ra rằng việc sớm áp dụng Basel II ở các quốc gia có năng lực quản trị tài chính hạn chế có thể gây lãng phí nguồn lực, kết quả sẽ tạo ra việc mở rộng quy mô hơn là tăng cường sự giám sát. Việc áp dụng sớm Basel tại các nước phát triển thực tế cũng đã đặt ra nhiều vấn đề, phát sinh những rủi ro do việc tiếp cận “quá nhanh và quá tham vọng”. Đối với Pakistan, chiến lược phù hợp nhất là đi chậm và ổn định dựa vào những lỗ hổng tài chính cần được khắc phục.
Thứ hai, thành công của Basel II phụ thuộc hoàn toàn vào sự sẵn có và độ tin cậy, chính xác của dữ liệu cũng như sự sẵn có của các báo cáo kịp thời. Hơn nữa nguồn nhân lực cũng khá cần thiết để diễn giải các dữ liệu cho việc ra quyết định. Nguồn nhân lực có thể coi là một công cụ cho việc thực hiện theo Basel II. Các khóa đào tạo nên được cung cấp bởi các trường kinh tế, các viện đào tạo chuyên ngành để tăng kỹ năng phân tích định tính và định lượng.
Thứ ba, tính bất đối xứng trong chế độ quản lý giữa các tổ chức tài chính như ngân hàng, các công ty chứng khoán và bảo hiểm. Trong nhiều quốc gia phát triển, chỉ các ngân hàng được yêu cầu tuân thủ theo Basel II mà không phải là các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính khác. Sự phân biệt đối xử như vậy có thể gây nguy hiểm tới toàn bộ nỗ lực phát triển, vì các tổ chức tài chính đều cùng xác định mục tiêu tạo sự ổn định tài chính cho nền kinh tế. Vấn đề sẽ trở nên trầm trọng hơn bởi sự bất đối xứng của việc giám sát do việc giám sát được thực hiện bởi các cơ quan giám sát khác nhau, vì vậy cần phải có sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan này trong một quốc gia. Có nhiều khía cạnh khác nhau của các vần đề được giám sát như: các câu hỏi về việc thực hiện Basel II, yêu cầu về các dữ liệu khác nhau, áp dụng các quy tắc khác nhau làm tăng chi phí hoặc không nhất quán…
Thứ tư, việc thực hiện theo Hiệp định Basel mới sẽ dẫn đến chu kỳ kinh doanh rõ ràng hơn. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, yêu cầu về vốn của ngân hàng có thể bị giảm sút bởi khoản vay bị thất thoát, khách hàng hiện tại không trả được nợ sẽ bị hạ bậc bởi mô hình RRTD, buộc ngân hàng phải nắm giữ nhiều vốn hơn đối với khoản vay hiện tại. Tỷ lệ an toàn vốn có thể góp phần giảm đáng kể tín
dụng ngân hàng và thiếu hụt thanh khoản trong các quốc gia phát triển. Khung Basel II cung cấp cho các giám sát quốc gia quyền quyết định trong lĩnh vực này, ví dụ: tùy theo quyết định của người giám sát để yêu cầu một bộ đệm của vốn bổ sung trong thời gian tốt nhất. Về mặt thống kê, phân tích xu hướng lịch sử của chu kỳ kinh doanh có thể dùng để tiên đoán tương lai. Kashyap và Stein (2004) đề xuất việc sử dụng các chỉ số chu kỳ kinh doanh tổng hợp để giảm ảnh hưởng chu kỳ kinh doanh của Basel II, ví dụ: yêu cầu tỷ lệ vốn đối với tài sản có trọng số có thể bị giảm xuống bất cứ khi nào tăng trưởng GDP giảm xuống dưới ngưỡng.
Thứ năm, một thách thức nghiêm trọng và phổ biến rộng rãi là chi phí hoạt động của Basel II. Trung tâm nghiên cứu đổi mới tại Pakistan đã đưa ra các báo cáo trong đó có gánh nặng về chi phí cho việc tuân thủ Basel II. Tương lai, chi phí ngành ngân hàng sẽ ngày càng tăng và chỉ những ngân hàng nào có khả năng tài trợ mới có thể tồn tại. Có thể lập luận rằng, các ngân hàng lớn có khả năng chịu đựng chi phí cao cho việc tuân thủ sẽ có lợi thế hơn và các ngân hàng nhỏ trong tương lai sẽ không được khuyến khích.
2.4.1.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kết quả đạt được
Việc thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng Hàn Quốc được thể hiện qua các nội dung cơ bản như: (i) Chiến lược và khẩu vị rủi ro; (ii) Phương thức QTRR; (iii) Hệ thống quản lý hạn mức rủi ro; (iv) Hệ thống KSRR.
Các ngân hàng tại Hàn Quốc đã xây dựng lộ trình áp dụng phương thức quản trị rủi ro hiện đại theo Basel II với từng giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: tuân thủ các chuẩn mực quản trị theo Basel II bằng việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần PD (xác suất khách hàng không trả được nợ), LGD (tỷ lệ tổn thất dự kiến trong trường hợp khách hàng không trả được nợ) và EAD (số dư nợ rủi ro). Dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EAD, các ngân hàng sẽ phát triển các mô hình ứng dụng trong quản trị rủi ro trên nhiều phương diện, mà mô hình ứng dụng đầu tiên là tính toán và đo lường rủi ro tín dụng qua EL (tổn thất dự kiến) và UL (tổn thất ngoài dự kiến) tại từng cấp độ khách hàng cụ thể EL được xác định theo công thức sau:
EL = PD x LGD x EAD
UL = độ lệch tiêu chuẩn của EL = = LGD x EAD x
Giai đoạn 2: quản trị rủi ro theo danh mục đầu tư bằng cách lượng hóa mức tổn thất dự kiến (ELp) và ngoài dự kiến (ULp) của cả danh mục đầu tư trên cơ sở
xác định mức độ rủi ro tương quan giữa các tài sản/mức vỡ nợ của các tài sản có rủi ro và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.
Giai đoạn 3: quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức độ rủi ro tương ứng. Khi EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng sẽ xác định lãi suất cho vay theo đúng phương châm “rủi ro cao tương ứng lợi nhuận cao, rủi ro thấp tương ứng lợi nhuận thấp” qua cơ chế tính giá để bù đắp rủi ro.
Giai đoạn 4: cao hơn việc quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo rủi ro, ngân hàng hướng tới việc QTRR danh mục chủ động thay vì QTRR danh mục một cách bị động thông qua việc xác định và chuyển giao rủi ro chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hóa khoản vay.
Giai đoạn 5: mô hình toàn diện nhất mà ngân hàng đạt được là quản trị rủi ro trên cơ sở giá trị (Value-based management-VBM). Theo đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro đều được xác định, giúp cho việc quản trị rủi ro được chính xác và hiệu quả.
Khó khăn và thách thức
Basel II tại Hàn Quốc được thực hiện vào cuối năm 2006. Theo trụ cột 2, các cơ quan quản lý địa phương được quyền tự quyết định về một số vấn đề của hiệp định mới. Tuy nhiên, phạm vi của các quyết định này vẫn chưa được xác định và nhiều vấn đề cần phải giải quyết trước khi phiên bản nội bộ của hiệp định được hoàn tất tại Hàn Quốc.
Thiếu dữ liệu là một trở ngại cơ bản cho các ngân hàng Hàn Quốc trong việc áp dụng cách tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ (IRB), trong đó các yêu cầu chủ yếu liên quan đến tính toán tỷ lệ tổn thất dự kiến cho từng khoản vay. Đối với hầu hết các ngân hàng tại Hàn Quốc, việc thu hồi khoản lỗ của khoản vay không được ghi rõ hoặc quản lý trong hồ sơ dữ liệu. Ngoài ra, việc chưa xác định được có nên tính toán thời hạn ân hạn đối với các khoản thanh toán lãi (30 ngày đối với khoản vay bán lẻ và 14 ngày đối với khoản vay của doanh nghiệp) khi xác định các khoản tín dụng vỡ nợ.
Các trở ngại mà ngân hàng phải đối mặt khi thực hiện tính toán vốn theo trụ cột 1 đã hạn chế các bên liên quan thảo luận về các yêu cầu của trụ cột 2 và trụ cột 3 một cách chi tiết hơn. Để đo lường rủi ro tín dụng, hầu hết các ngân hàng được khảo sát đã thông qua phương pháp IRB, một vài ngân hàng bỏ qua nền tảng IRB mà đi thẳng vào phương pháp tiếp cận tiên tiến. Để đo lường RRHĐ, tất cả các ngân hàng đều muốn sử dụng phương pháp đo lường tiên tiến, nhưng hơn một nửa sử dụng phương pháp tiếp cận chuẩn như một biện pháp chuyển tiếp.
Việc thực hiện theo Basel II thúc đẩy các ngân hàng Hàn Quốc tái cấu trúc bảng cân đối của họ, tuy nhiên ở góc độ quản lý và giám sát, các nhà quản lý địa phương cũng như các cơ quan giám sát có thể ngăn chặn bất kỳ sự thay đổi đáng kể và nhanh chóng trong hành vi thực hiện của các ngân hàng. Đáng lưu ý, các ngân hàng có các giao dịch không được đánh giá hoặc xếp hạng đầy đủ sẽ mất một số ưu đãi để tăng trưởng tín dụng do chi phí vốn lớn. Basel II làm giảm chi phí đầu tư vào các danh mục đầu tư cá nhân của ngân hàng, việc này sẽ tăng cường cạnh tranh các khoản vay có tài sản đảm bảo.
Basel II cũng tạo cơ hội cho NHTW Hàn Quốc cải thiện hệ thống giám sát quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro không phù hợp và sự không tương thích giữa cách tính giá khoản vay giữa các ngân hàng sẽ gây những thiệt hại và cạnh tranh giữa các ngân hàng. Để có thể áp dụng tốt nhất và phù hợp nhất các lợi thế của Basel II, cần phải nâng cao hiểu biết về quản lý rủi ro cho cán bộ thanh tra giám sát của ngân hàng trung ương.
2.4.1.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Kết quả đạt được
Hệ thống quản lý giám sát tài chính Trung Quốc đảm nhiệm chức năng phát triển thị trường tài chính và nền kinh tế bao gồm NHTW Trung Quốc và 3 cơ quan song song quản lý định chế bao gồm Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (CSRC), Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc (CBRC), Ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc (CIRC).
Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc chịu trách nhiệm quản lý sự hoạt động và các định chế tài chính trên toàn lãnh thổ. Luật quản lý ngân hàng áp dụng quản lý đối với các công ty quản lý tài sản tài chính, công ty ủy thác đầu tư, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính thành lập ở Trung Quốc và một số định chế tài chính khác thành lập tại Trung Quốc sau khi CBRC phê duyệt. Nhiệm vụ và trách nhiệm của CBRC bao gồm cấp phép ngân hàng mới, xây dựng quy định và quy tắc thận trọng, hàng loạt các quy định quyền hạn về quản lý tại chỗ và quản lý từ xa. Ủy ban này cũng chịu trách nhiệm cho việc phát hiện rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng và thành lập hệ thống cảnh báo.
Ban đầu, NHTW Trung Quốc cho phép các ngân hàng duy trì mức an toàn vốn CAR theo yêu cầu của Basel I. Sau đó, NHTW Trung Quốc đã sửa đổi các chính sách, quy định vào tháng 2/2004 và có hiệu lực từ tháng 1/2007. Việc sửa đổi các quy định này làm gia tăng đáng kể chi phí đối với việc quản lý và giám sát ngân