Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Về Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Trong Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam

được cụ thể hóa bằng văn bản nên việc thực hiện còn chưa thống nhất. Trong khi một số đơn vị đã thiết kế được thủ tục, nhưng lại chưa áp dụng. Các bộ phận trong ngân hàng ở một số qui trình chưa có sự liên kết và đánh giá lẫn nhau, do đó ngân hàng chưa phát hiện kịp thời những hạn chế của các hoạt động kiểm soát. Các cách thức kiểm soát khác nhau tại ngân hàng chưa được áp dụng một cách đầy đủ và thường xuyên.

3.3.2.4. Về hệ thống thông tin và trao đổi thông tin

Một số NHTM vẫn chưa xây dựng được hệ thống mạng nội bộ để truyền đạt thông tin mà chỉ được thực hiện qua email. Việc tổ chức mối liên hệ giữa hệ thống thông tin kế toán với các hệ thống thông tin khác còn chưa đồng bộ và nhất quán. Ngoài ra, các kênh thông tin từ cấp trên xuống cấp dưới, phản hồi từ cấp dưới lên cấp trên chưa được thông suốt tạo ra khó khăn không nhỏ trong việc nắm bắt các thông tin hàng ngày của các nhà quản trị. Các thông tin được khai thác c ng chưa được xử lý theo chiều sâu để phục vụ cho việc ra quyết định.

Việc lựa chọn và quyết định các chính sách kế toán quan trọng, đặc biệt là các chính sách phân loại nợ, các ước tính kế toán, các khoản công nợ tiềm tàng, các giao dịch bất thường (có sự xét đoán chủ quan của HĐQT và Ban điều hành) nhằm ngăn ngừa và phát hiện các gian lận, sai sót trong việc lập BCTC còn chưa thực sự hiệu quả, do đó mục tiêu lập BCTC đảm bảo phải trung thực còn rất nhiều khó khăn. Một số NHTM thực hiện chưa đầy đủ việc lập và ghi chép c ng như báo cáo một cách đầy đủ với các bên liên quan trong giao dịch và ngăn ngừa, phát hiện các vi phạm làm ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC. Bởi vì các giao dịch này thường tiềm ẩn rủi ro khi có sự thông đồng của các bên về các điều khoản của hợp đồng vì mục đích của cá nhân hay một nhóm người. Tất cả những hạn chế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy của các thông tin trên BCTC.

Trình độ chuyên môn về CNTT của đội ng cán bộ trong ngân hàng vẫn là một hạn chế lớn khi thực hiện các công việc có liên quan. Nhất là những bộ phận như bộ phận kiểm toán nội bộ thì vẫn còn tình trạng thiếu cán bộ với trình bộ chuyên môn về CNTT, làm hạn chế chất lượng và thời gian trong quá trình kiểm toán.

3.3.2.5. Về giám sát

Một số cán bộ quản lý cấp cao trong ngân hàng vẫn chưa thực sự quan tâm nhiều đến hoạt động giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ. Hoạt động giám sát thường xuyên mới chỉ được thực hiện thông qua việc tiếp nhận thông tin phản hồi giữa nhân viên và cán bộ lãnh đạo quản lý. Hoạt động giám sát định kỳ c ng chỉ được thực hiện thông qua việc xem xét và đánh giá các báo cáo kiểm soát nên khi có biến động bất thường thì khó có thể phát hiện và điều chỉnh toàn bộ hoạt động của đơn vị một cách linh hoạt. Hoạt động giám sát chưa được tiến hành trên cơ sở định hướng rủi ro nên chất lượng giám sát chưa cao. Các NHTM chưa thực hiện hiệu quả cơ chế báo cáo và cảnh báo rủi ro theo các cấp từ dưới lên trên.

Vai trò giám sát của KTNB đối với hệ thống KSNB ở một số ít NHTM còn hạn chế, chưa phát hiện kịp thời những khiếm khuyết của hệ thống KSNB để khắc phục. Tính độc lập của KTNB chưa được đảm bảo ở mức cao nhất theo yêu cầu. Bộ phận KTNB thậm chí có nơi chưa nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của BGĐ, HĐQT và của các đơn vị trong ngân hàng.

3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế về hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam

Một là, ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế với nhiều đặc thù so với các ngành khác. Việc tiếp thu những kinh nghiệm thế giới trong thiết kế, vận hành hệ thống KSNB đối với các NHTM Việt Nam còn hạn chế. Thêm vào đó, nhận thức về vai trò và trách nhiệm của các nhà quản lý đối với việc thiết kế và vận hành hệ thống KSNB ở một số ngân hàng là chưa tương xứng nên bản thân hệ thống KSNB vốn đã có những tồn tại cỗ hữu thì càng bộc lộ nhiều tồn tại cần phải khắc phục.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Hai là, do ảnh hưởng bởi các yếu tố từ bên ngoài như tình hình kinh tế vĩ mô không thuận lợi hay từ bên trong như sự phát triển quá nhanh của các ngân hàng trong những năm qua, trong khi hệ thống KSNB còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Vì vậy, tuy ngân hàng đã xây dựng được hệ thống qui trình kiểm soát, nhưng các hoạt động kiểm soát có thể không phát huy

hiệu lực trong thực tế do có sự thông đồng giữa các nhân viên làm vô hiệu hóa hệ thống KSNB.

Kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - 17

Ba là, việc đánh giá hệ thống KSNB từ phía công ty kiểm toán độc lập còn có những hạn chế nhất định. Do giá phí kiểm toán tại Việt Nam là rất thấp nên đã ảnh hưởng đến việc bố trí nhân sự, thời gian và các thủ tục kiểm toán cần kiểm tra. Ngoài ra, việc giá phí kiểm toán thấp khiến cho các công ty kiểm toán bị sức ép rất lớn về mặt hiệu quả kinh tế trong quá trình hoạt động do đó các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán chỉ dừng lại việc đánh giá hệ thống KSNB với mục tiêu kiểm tra, xác nhận về tính trung thực, hợp lý của các thông tin trên BCTC chứ chưa có tư vấn thực sự cần thiết cho đơn vị được kiểm toán.

Bốn là, sự thiếu hụt về nhân sự có kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán. Hiện nay, nhiều NHTM có số lượng kiểm toán viên còn ít , chưa phù hơp với quy mô. Hơn nữa, kỹ năng xét đoán các vấn đề trong quá trình kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ còn nhiều hạn chế. Đây chính là hệ quả của việc thiếu kinh nghiệm c ng như sự hiểu biết của kiểm toán viên về môi trường kinh doanh c ng như KSNB của kiểm toán viên. Kỹ năng xét đoán của các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán cần phải được nâng cao thông qua quá trình đào tạo trải nghiệm thực tế.

Năm là, Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước (Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính...), các NHTM, các công ty kiểm toán chưa chặt chẽ do đó chưa đem lại hiệu quả cao trong công tác giám sát, phòng ngừa và cảnh báo các rủi ro đối với các NHTM.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, tác giả đã đánh giá thực trạng hệ thống KSNB từ góc độ quản lý nhà nước và thông qua năm thành phần của hệ thống KSNB của các NHTM để phân tích ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế của hệ thống KSNB trong các NHTM, những nội dung cụ thể:

- Khái quát hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2013-2018 và các văn bản pháp lý liên quan đến hệ thống KSNB trong NHTM Việt Nam.

- Trình bày rủi ro trọng yếu có ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM.

- Tổng hợp báo cáo của các NHTM về hệ thống KSNB và báo cáo của cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng để đánh giá khái quát thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống KSNB trong các NHTM Việt Nam. Đồng thời tiến hành điều tra khảo sát về hệ thống KSNB trong các NHTM Việt Nam thông qua năm thành phần là môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, hoạt động giám sát.

- Từ việc phân tích thực trạng hệ thống KSNB tại các NHTM Việt Nam , tác giả đã khái quát được các ưu điểm c ng như các mặt hạn chế của hệ thống KSNB tại các đơn vị này và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Những đánh giá trên là cơ sở quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp và kiến nghị trong chương 4 của Luận án.

Chương 4

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

4.1. Những cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa và mở rộng thị trường ngân hàng theo các cam kết quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm, trình độ quản lý của một số NHTM lớn và có uy tín trên trường quốc tế [86]. Mặt khác, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, tự thân các NHTM Việt Nam phải chủ động thực hiện cơ cấu lại hoạt động và tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tiệm cận các chuẩn mực chung của quốc tế. Các NHTM nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính ngân hàng trong nước sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh với các ngân hàng nội, làm gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Điều này đã và đang tạo ra cho các NHTM Việt Nam những cơ hội để phát triển nhưng c ng đặt ra không ít những thách thức đối với các NHTM Việt Nam.

4.1.1. Những cơ hội

Thứ nhất, cơ hội mở rộng, phát triển thị trường ra nước ngoài đối với các ngân hàng Việt Nam: việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các NHTM trong và ngoài nước được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi công bằng và bình đẳng hơn còn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập thị trường quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hội nhập còn đem lại cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của các NHTM Việt Nam trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế, điều vốn là hạn chế của các NHTM Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, sự tham gia thị trường của các NHTM nước ngoài không chỉ làm gia tăng mức độ cạnh tranh mà còn gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Mặt khác, thông qua hội nhập, các NHTM Việt Nam có cơ hội

tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý của các NHTM phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, các NHTM trong nước phải chủ động thực hiện cơ cấu lại tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tăng năng lực tài chính, thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ng cán bộ.

Thứ ba, các ngân hàng Việt Nam được tham gia vào một sân chơi kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao: Khi thực hiện những cam kết hội nhập, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ ngày càng giảm và hạn chế sự bảo hộ. Bối cảnh này tạo điều kiện để các ngân hàng Việt Nam trở nên năng động hơn trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, các ngân hàng có cơ hội thể hiện năng lực và trình độ của mình. Hội nhập sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực hiện các cam kết, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Mặt khác, các ngân hàng trong nước buộc phải chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, khai thác và áp dụng hiệu quả hơn ưu thế của các loại hình ngân hàng nhằm mở rộng thị phần trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.

Thứ tư,cơ hội nhận được sự hỗ trợ về tư vấn, đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài: Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội liên kết của các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài. Liên kết với các ngân hàng nước ngoài giúp các ngân hàng trong nước có điều kiện tốt để tăng cường về khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ được hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật trong áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị và phát triển sản phẩm mới. Sự tham gia điều hành, quản trị các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng trong nước. Việc hội nhập c ng đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nước thông qua

đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn.

4.1.2. Những thách thức

Bên cạnh những cơ hội thì các NHTM gặp không ít những khó khăn thách thức phải vượt qua khi Việt Nam hội nhập và thực thi các cam kết quốc tế. Khoảng cách giữa các NHTM trong nước và NHTM trong khu vực và trên thế giới vẫn còn rất lớn về mọi phương diện là nguyên nhân chính mặc dù trong thời gian qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát triển nhất định.

Thứ nhất, xu thế fintech là tất yếu, tốc độ phát triển rất nhanh, đòi hỏi các ngân hàng phải nhanh chóng tham gia để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong khi trình độ công nghệ, vốn, nhân sự… đều còn rất hạn chế. Theo nhìn nhận của Vietnam Report trong 2-3 năm trở lại đây, sự xâm nhập của công nghệ vào lĩnh vực tài chính (fintech - công nghệ tài chính) được xem như một trào lưu “hợp thời” trước bối cảnh công nghệ 4.0 phát triển toàn cầu và sự thay đổi hành vi online của khách hàng (bao gồm hoạt động mua sắm, giải trí, mạng xã hội…). Do đó, sự lo ngại phát sinh các vấn đề an ninh tài chính và bảo mật thông tin khách hàng. Việc thanh toán trực tuyến hay thanh toán qua di động sẽ thúc đẩy một nền kinh tế sử dụng ít tiền mặt, thuận tiện hơn, tuy nhiên vấn đề bảo mật và an ninh được người dùng quan tâm nhiều hơn, nhất là khi các vụ lừa đảo, mất tiền trong tài khoản ngân hàng… đang ngày càng gia tăng. Sự phát triển của fintech vô hình chung khiến việc quản lý trở nên phức tạp hơn. Tại Việt Nam dự kiến sẽ có gần 100 công ty fintech tham gia, đòi hỏi cần có cơ chế pháp luật để quản lý hoạt động của các công ty này.

Thứ hai, sự cạnh tranh của hệ thống ngân hàng ngày càng gay gắt: các NHTM Việt Nam hiện nay có tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự họp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới. Việc mở cửa hội nhập, kéo theo một lượng lớn các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý tham gia vào thị trường tài chính nội địa và sự cạnh tranh gay gắt giữa khối ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài là điều khó có thể tránh khỏi. Các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về chất lượng phục vụ và đa dạng dịch vụ sẽ

thu hút một lượng lớn khách hàng - là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng thị phần của các ngân hàng ngoại và sự sụt giảm thị phần của các ngân hàng nội địa.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối họp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu như năng lực quản lý và lập pháp không theo kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài chính - ngân hàng, sẽ có 2 khả năng xảy ra: hoặc là ngành ngân hàng mất khả năng kiểm soát dẫn tới khủng hoảng hoặc quốc gia sẽ tái áp dụng các hạn chế để duy trì kiểm soát. Cả hai trường hợp này đều không có lợi cho sự phát triển của ngành ngân hàng.

Thứ tư, áp lực nâng cao chất lượng và dịch chuyển nguồn nhân lực tài chính ngân hàng chất lượng cao sang các tổ chức nước ngoài và khu vực: Trong thời kỳ phát triển, khu vực tài chính có thể thu hút được một lực lượng lớn lao động tham gia và là một trong những khu vực có mức tiền lương cao, song trong thời kỳ khủng hoảng và suy thoái, lao động trong khu vực tài chính c ng là nhóm người dễ bị tổn thương nhất, phải chịu sức ép sa thải hoặc cắt giảm tiền lương.

Ngay cả khi không phải do sự suy giảm về xu hướng kinh doanh thì trong khu vực tài chính c ng luôn diễn ra một chu trình di chuyển lao động khắc nghiệt. Đó là việc cắt giảm lao động có tay nghề thấp để thay thế bằng lao động có tay nghề cao, điều này dễ xảy ra tình trạng chảy máu chất xám của lao động có tay nghề cao trong quá trình cạnh tranh. Vì thế, một trong những thách thức lớn của hệ thống ngân hàng Việt Nam là việc giữ chân nhân tài, tránh sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam sang các nước khu vực. Thêm vào đó, hội nhập đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có một nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn cao về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu luật pháp quốc tế và được trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá và dự báo theo mô hình và chuẩn mực quốc tế, trong khi nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam còn rất yếu kém về các kiến thức và kỹ năng trên. Đây là một khó khăn lớn cho các NHTM Việt Nam.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí