Những Nội Dung Cơ Bản Của Kế Hoạch Hóa Kinh Tế Vĩ Mô.

như ngoài nước còn rất yếu, nhiều loại thị trường còn sơ khai, hoặc đang trong quá trình hình thành, thu nhập của người lao động còn thấp, sức mua hạn chế…. Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình độ phát triển thấp của LLSX, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trong một thời gian quá dài…‌

1.2. KẾ HOẠCH HÓA KINH TẾ VĨ MÔ.

1.2.1. Định nghĩa.

Về kế hoạch hóa Kinh tế vĩ mô hiện có nhiều định nghĩa khác nhau xuất phát từ những cách tiếp cận không giống nhau.

Theo Michael P. Todaro: "KHH Kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động của chính phủ nhằm phối hợp việc ra những quyết định tương đối dài hạn về kinh tế và nhằm tác động trực tiếp ( thậm chí trong một số trường hợp còn kiểm soát) đối với mức tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng của những biến số kinh tế chủ yếu ( như thu nhập, tiêu dùng, việc làm, đầu tư, tiết kiệm, xuất khẩu, nhập khẩu…), để đạt được các mục tiêu phát triển đã xác định. KHH là cơ chế mà Nhà nước sử dụng để kiểm soát toàn bộ nền kinh tế”.

- Diana Coneyrs & Peter Hills thì cho rằng:" KHH là quá trình quyết định, lựa chọn liên tục các phương án khác nhau về sử dụng nguồn lực có hạn để đạt được các mục tiêu đề ra cho một thời kỳ nhất định trong tương lai” [29/123].

- Theo Cao Viết Sinh: KHH là sự thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu bằng việc sử dụng có hiệu quả nhất tiềm năng hiện có. KHH phát triển có đặc thù thể hiện sự cố gắng lựa chọn và sắp xếp huy động những nguồn khả năng, đưa ra định hướng sử dụng thông qua cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước.[ 20/122]

- Du Lô Giang quan niệm: Công cụ quản lý kinh tế, xã hội của Nhà nước ở tầm vĩ mô được thực hiện bằng 2 đặc trưng cơ bản là định hướng có

lượng hóa ở mức độ cho phép và giữ được trạng thái cân đối giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế trong từng thời kỳ. [16/122]

Như vậy, nên định nghĩa KHH kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động của Chính phủ nhằm lựa chọn phương án sử dụng hợp lý các nguồn lực và quyết định các giải pháp tác động đến những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu theo hướng các mục tiêu đã được xác định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

KHH kinh tế vĩ mô là một thể thống nhất bao gồm nhiều khâu từ việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, công tác quy hoạch phát triển, kế hoạch hóa định hướng 5 năm, KHH hàng năm đến công tác điều hành thực hiện, theo dòi và điều chỉnh kế hoạch.

- KHH phải xuất phát từ những quan điểm và mục đích chính trị của Chính phủ, KHH xác định những mục tiêu chính sách liên quan đến sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế.

Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 3

- KHH phát triển không chỉ bao gồm những mục tiêu mà còn thể hiện những mục tiêu đó thành những chỉ tiêu cụ thể.

- KHH là quá trình xây dựng những quy tắc và chính sách nhất quán về mặt nội dung để thực hiện những mục tiêu đề ra cũng như hướng dẫn việc thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch và những quyết định chính sách thường nhật.

- KHH là quá trình toàn diện tầm kinh tế quốc dân, đồng thời có thể kế hoạch hóa cho từng lĩnh vực.

- Để đảm bảo tính tối ưu và tính nhất quán KHH kinh tế quốc dân thường sử dụng một số mô hình kinh tế lượng ít nhiều đã được công nhận chính thức để dự báo những hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai.

- Kế hoạch phát triển kinh tế thường là kế hoạch trung hạn 5 năm, có thể kết hợp với một kế hoạch triển vọng dài hạn và được cụ thể hóa bằng những kế hoạch hàng năm .

1.2.2. Những nội dung cơ bản của kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô.

Nhiều nhà kinh tế đã thống nhất KHH bao hàm 3 nội dung cơ bản sau:

1. Vấn đề chọn lựa mục tiêu và phương thức hoạt động.

Kế hoạch hóa là việc ra quyết định về lựa chọn một trong số nhiều phương thức hành động. Có hai loại lựa chọn chính liên quan đến kế hoạch hóa. Thứ nhất, là lựa chọn các mục tiêu ưu tiên; bởi vì nguồn lực có hạn nên không thể đáp ứng được cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển. Thứ hai, kế hoạch hóa cũng liên quan đến sự lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau, giữa các cách thức khác nhau để đạt được cùng một mục tiêu. Kế hoạch hóa kinh tế cũng giống như kế hoạch hóa cho một cuộc hành trình. Trong đa số trường hợp, sẽ có nhiều cách khác nhau mà người du hành có thể chọn để đến đích, và việc lập kế hoạch cho hành trình liên quan đến việc quyết định lựa chọn một cách thức cụ thể được coi là hợp lý nhất trong số đó.

Mặc dù hai loại lựa chọn này khác nhau, nhưng chúng đều liên quan đến quá trình ra quyết định giống nhau. Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa và việc ra quyết định quan trọng đến mức nhiều công trình lý thuyết về kế hoạch hóa quan tâm đến các cách tiếp cận khác nhau đối với việc ra quyết định, cụ thể là đến các nhân tố được xem xét khi ra quyết định và trình tự quy trình ra quyết định. Hơn nữa, các nhà kế hoạch đã sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại để cải thiện cách thức ra quyết định và nâng cao chất lượng của các quyết định.

Sẽ là thiếu sót khi nói rằng kế hoạch hóa chỉ liên quan đến ra quyết định về sử dụng nguồn lực, bởi lẽ cách sử dụng tốt nhất bất kỳ một tập hợp cụ thể các nguồn lực nào phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu cần đạt tới. Nói cách khác, kế hoạch hóa liên quan đến việc ra quyết định về các cách thức khác nhau để đạt được những mục tiêu cụ thể. Trong ví dụ về lập kế hoạch cho một hành trình, mục tiêu của việc lập kế hoạch là quan niệm về kế hoạch hóa như cách để đạt được mục tiêu đặt ra những vấn đề về bản chất của các mục tiêu và quy trình xây dựng mục tiêu. Một trong những vấn đề mà nhà kế hoạch thường gặp phải là những mục tiêu của họ không được xác định rò ràng, mà thường rất mập mờ. Ví dụ, mục tiêu"tăng sản lượng nông nghiệp” có thể

chẳng đưa ra được định hướng rò rệt cho các nhà kế hoạch nông nghiệp. Trong một số trường hợp khác, mục tiêu lại không thực tế trong điều kiện cung ứng nguồn lực có hạn. Trong nhiều trường hợp, các nhà kế hoạch cũng gặp phải những vấn đề như phải cố đạt được quá nhiều mục tiêu và đôi khi các mục tiêu đó lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn, sẽ là rất khó cho các nhà kế hoạch khi phải cùng một lúc thực hiện hai mục tiêu vừa tối đa hóa sản lượng trên một hecta vừa giảm sự bất bình đẳng giữa các hộ nông dân, bởi vì hai mục tiêu này thường mâu thuẫn với nhau. Có trường hợp tuy ít xảy ra nhưng nếu có thì rất nghiêm trọng, đó là trường hợp những mục tiêu hoàn toàn không có ý nghĩa hoặc hoàn toàn đi ngược lại với lợi ích của đại bộ phận dân chúng.

2. Phân bổ nguồn lực.

Một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hóa liên quan đến phân bổ nguồn lực. Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên ( đất, nước, khoáng sản..) mà còn bao gồm cả nhân lực ( Hay nguồn lực con người nói chung), tài sản ( như đường, nhà và thiết b ị) và tài chính. Việc phân biệt những gì không được coi là nguồn lực tùy thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của người sử dụng cũng như nhận thức về giá trị sử dụng và khả năng sử dụng cụ thể trong từng trường hợp.

Kế hoạch hóa liên quan đến các quyết định làm thế nào để sử dụng tốt nhất các nguồn lực hiện có. Vì thế, số lượng và chất lượng của những nguồn lực này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nhau. Một mặt, sự giới hạn về số lượng và chất lượng các nguồn lực là lý do chính giải thích tại sao kế hoạch hóa lại liên quan đến việc ra quyết định lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau. Mặt khác, khi phải lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nhau, thì khả năng cung ứng các nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lượng phương thức có thể lựa chọn và phương thức nào có khả năng được chấp nhận hơn cả.

Do kế hoạch hóa liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực, nên một bộ phận quan trọng của quá trình lập kế hoạch là thu nhập và phân tích thông tin về khả năng cung ứng các nguồn lực hiện có. Điều này đặt ra những câu hỏi cả về khái niệm và về phương pháp liên quan đến hệ thống thông tin kế hoạch cần được giải đáp.

3. Vấn đề dự báo.

Có một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hóa được thể hiện trong hầu hết các định nghĩa, đó là yếu tố thời gian. Các mục tiêu mà kế hoạch hóa muốn đạt tới rò ràng là ở tương lai, và kế hoạch hóa tất nhiên sẽ gắn với tương lai. Sự quan tâm đến tương lai tự nó được thể hiện theo hai cách chí nh. Các thể hiện thứ nhất là một phần quan trọng của kế hoạch hóa liên quan đến dự báo, hoặc đưa ra các dự báo về điều gì có thể xảy ra trong tương lai, và cụ thể hơn là dự báo về kết quả của các phương thức hoạt động khác nhau để xác định cần lựa chọn phương thức nào. Tất nhiên, không thể biết chính xác được điều gì sẽ xảy ra trong tương lai và vì thế kế hoạch hóa không tránh khỏi việc chấp nhận ở mức độ nhất định sự bất ổn và rủi ro. Tuy nhiên, có nhiều kỹ thuật khác nhau mà người lập kế hoạch có thể sử dụng để nâng cao tính chính xác của các dự báo của họ và xử lý những vấn đề về rủi ro và bất ổn. Khoảng thời gian tương lai của kế hoạch hóa là bao lâu? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung cụ thể kế hoạch hóa. ở một thái cực có một số hoạt động mà các cá nhân và tổ chức có thể phải lập kế hoạch trên cơ sở kế hoạch liên quan đến việc đưa ra những dự báo về bức tranh thế giới vài thập kỷ sau.

Phân tích mức độ thời gian dài ngắn khác nhau của việc chuẩn bị kế hoạch có thể gây cảm tưởng rằng kế hoạch hóa là hoạt động định kỳ. Người ta thường nghĩ rằng kế hoạch được lập cho khoảng thời gian ấn định ( ví dụ cho 5 năm tiếp theo), và khi kế hoạch đã được lập xong thì kế hoạch hóa coi như kết thúc, cho đến khi kết thúc 5 năm, tức là lúc bắt đầu lập kế hoạch cho thời kỳ 5 năm tiếp theo. Trong các thập kỷ 50 và 60 nhiều nhà kế hoạch đã có quan điểm như vậy về kế hoạch hóa, nhưng gần đây người ta đã nhận thức

rằng kế hoạch hóa nên được coi là một hoạt động liên tục. Điều này có nghĩa là mặc dù có thể kế hoạch cần phải được lập cho khoảng thời gian xác định, nhưng nó nên được liên tục theo dòi và xem xét lại trong giai đoạn đó, và nếu cần thì có thể được kéo dài sang giai đoạn kế hoạch khác.

Tóm lại, mặc dù kế hoạch nhất định phải liên quan đến tương lai; nhưng điều đó không hạn chế các nhà lập kế hoạch dành nhiều sự chú ý của họ nghiên cứu tình hình quá khứ và hiện tại. Trong thực tế, các nghiên cứu hiện tại là rất quan trọng để đưa ra thông tin về nhu cầu và điều kiện hiện tại cũng như các nguồn lực hiện có cho phát triển, trong khi đó nghiên cứu lịch sử có thể tạo cơ sở tốt cho dự báo các xu hướng trong tương lai.

1.2.3. Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa với hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện.

Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô chỉ là một loại hình hoạt động quản lý của Nhà nước; gắn với nó còn có nhiều loại hình hoạt động quản lý khác nữa, đặc biệt là công tác hoạch định chính sách và công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện.

Theo D. Conyers và P. Hills thì nói một cách đơn giản nhất, hoạch định chính sách liên quan đến việc đưa ra các quyết định về các phương hướng chung cho sự thay đổi hoặc phát triển; trong khi đó kế hoạch hóa là quá trình quyết định về phương thức hành động và lựa chọn phương thức hành động nào là tốt nhất để tạo ra những thay đổi hoặc phát triển đó; đồng thời kế hoạch hóa còn xác định xem nên tổ chức thực hiện ra sao, và triển khai việc thực thi trên thực tế những phương thức hoạt động này.

Để thấy rò sự khác nhau này, có thể xem xét quy trình kế hoạch hóa trong ví dụ của lĩnh vực xây dựng nhà ở của một quốc gia. Trong trường hợp này, việc hoạch định chính sách có thể đưa ra quyết định (trong số nhiều quyết định khác) đáp ứng nhu cầu nhà ở chủ yếu bằng các chương trình cung cấp địa điểm và dịch vụ; tức là chính phủ cung cấp địa điểm đã có c ác dịch vụ cơ bản để người dân tự xây dựng nhà ở cho mình. Sau đó kế hoạch hóa có thể bao hàm nội dung ra quyết định xem có bao nhiêu chương trình như vậy cần

được xây dựng, địa điểm ở đâu, những loại hình dịch vụ nào sẽ được cung ứng, các vị trí sẽ được phân cho từng cá nhân như thế nào, và những điều kiện nào (nếu có) sẽ được ra ra đối với những người xây dựng về cách thức sử dụng địa điểm được phân. Kế hoạch hóa cũng bao gồm các quyết định về chi phí của các chương trình, số tiền nhận được, và ai có trách nhiệm tổ chức thực hiện. Cuối cùng, giai đoạn thực hiện có thể bao gồm việc xây dựng trên thực tế các chương trình, kể cả chuẩn bị địa điểm, cung ứng dịch vụ và lựa chọn những người được nhận địa điểm.

Ví dụ này chỉ rò hai khía cạnh của mối quan hệ giữa hoạch định chính sách, kế hoạch hóa tổ chức thực hiện. Thứ nhất, nó cho thấy ba hoạt động này tiếp nối nhau, bắt đầu từ hoạch định chính sách, tiếp theo là kế hoạch hóa, và sau đó là tổ chức thực hiện. Đồng thời, điều này chỉ rò vai trò của kế hoạch như là bước trung gian giữa hoạch định chính sách tổ chức thực hiện, là phương cách chuyển các chính sách chung thành các chương trình hành động tạo ra các kết quả cụ thể. Thứ hai, nó chỉ ra sự phân công trách nhiệm giữa các cá nhân hoặc tổ chức có liên quan, trong đó việc hoạch định chính sách chủ yếu là trách nhiệm của các nhà chính trị hoặc những người ở vị trí ra các quyết định chính trị; trong khi kế hoạch hóa chủ yếu là trách nhiệm của nhà kế hoạch, và việc thực hiện chủ yếu do các nhà quản lý đảm nhiệm.

Tuy nhiên, người ta cũng thấy rò là khó có thể đưa ra ranh giới rò ràng giữa hoạch định chính sách, kế hoạch hóa và tổ chức thực hiện hoặc giữa vai trò của nhà chính trị, nhà kế hoạch và nhà quản lý. Trước hết, hoạch định chính sách và kế hoạch hóa không phải luôn luôn là những hoạt động tách biệt rò ràng, tiếp nối nhau. Trở lại ví dụ về chương trình địa điểm và dịch vụ nhà ở, mặc dù quyết định chính sách cơ bản là quyết định đáp ứng nhu cầu nhà ở bằng cách đưa ra các chương trình địa điểm và dịch vụ, nhưng nhiều quyết định chính sách tiếp theo vẫn được đưa ra trong giai đoạn được gọi là kế hoạch hóa. Có thể không xây dựng được các chương trình trong tất cả các khu vực cùng một lúc, nên phải xác định thứ tự ưu tiên và đây là vấn đề khá

nhạy cảm do nó ảnh hưởng đến việc phân bổ dịch vụ giữa các vùng địa lý khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi sức ép từ các nhà chính trị hoặc các nhóm chính trị nhất định. Kết quả là vấn đề này được coi là vấn đề hoạch định chính sách và các nhà kế hoạch có thể cần phải dành cho các nhà chính trị hoặc những người khác có thẩm quyền ra các quyết định đó.

Một vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa hoạch định chính sách và kế hoạch hóa là vai trò của hoạch định chính sách trong việc xây dựng các mục tiêu kế hoạch. Xây dựng các mục tiêu nói chung liên quan nhiều đến các quyết định hoạch định chính sách, mặc dù đôi khi các mục tiêu đó chẳng hề có tầm quan trọng về mặt chính trị. Điều đó một lần nữa cho thấy rằng mặc dù kế hoạch hóa và hoạch định chính sách không thể tách rời một cách rò ràng; nhưng các quyết định chính sách có xu hướng đi trước các quyết định kế hoạch hóa; tương tự như vậy các mục tiêu cần được xác định trước khi lập kế hoạch thực hiện chúng.

Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa và hoạch định chính sách cũng còn được thể hiện ở chỗ các bản kế hoạch thường bao gồm tổng hợp các chính sách và các kế hoạch cụ thể, và hai nội dung này không dễ tách bạch với nhau. Hơn nữa, hầu hết các bản kế hoạch cũng như các tài liệu kế hoạch phải được các tổ chức chính trị thông qua và chấp thuận, và vì thế cũng đồng thời là tài liệu chính sách.

Tương tự, sự phân biệt giữa kế hoạch hóa và tổ chức thực hiện cũng không thật rò ràng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới nguy cơ các bản kế hoạch không thực hiện được là khoảng cách quá xa giữa kế hoạch hóa và tổ chức thực hiện. Để khắc phục tình trạng này, người ta thường phải tiến hành các biện pháp để làm cho kế hoạch có tính khả thi. Mặt khác, các nhà kế hoạch cũng có vai trò quan trọng trong và sau giai đoạn tổ chức thực hiện, như theo dòi tiến độ thực hiện và đưa ra những điều chỉnh kế hoạch, và thậm chí cả đối với các chính sách, nếu xét thấy cần thiết.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/08/2022