4.2.2.5.Mở rộng thị trường để thu hút và phát huy các nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Đối với thị trường nước ngoài
Mở rộng thị trường nước ngoài đây là cơ hội để cho thành phố xuất nhập khẩu hàng hóa, khoa học CN, lao động... trong thời gian tới để tăng kim ngạch xuất khẩu cho thành phố ngoài việc giữ vững và mở rộng các thị trường đã có của thành phố như Mỹ, EU, Nhật thì cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và có chiến lược tiếp thị các thị trường mới như Trung Cận Đông, Mỹ La Tinh, Asean. Nhất là thị trường ngay trong khu vực Asean là các thị trường hứa hẹn tiềm năng xuất khẩu với doanh nghiệp thành phố: ví dụ thị trường Indonesia nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh do sự chuyển dịch dân số về mặt thành thị, nhiều mặt hàng Đà Nẵng phù hợp với yêu cầu nơi đây như: da giầy, may mặc, chế biến thủy sản... Hay thị trường Myanmar với 60 triệu dân nhưng sản xuất nội địa chỉ đáp ứng 15% nhu cầu nước họ còn đâu là phải nhập khẩu. Theo tác giả đây là 2 thị trường hứa hẹn tiềm năng xuất khẩu với doanh nghiệp thành phố. Nhưng để đón đầu các doanh nghiệp cần lưu ý đến các vấn đề về văn hóa, phương thức kinh doanh hay cách tiếp cận để có hệ thống phân phối tại mỗi thị trường, phải đưa sản phẩm có tính độc đáo, có bản sắc riêng chứ không nên mang các sản phẩm cùng loại để cạnh tranh về giá.
Để tiếp cận các nguồn vốn FDI, ODA... thì cần có môi trường đầu tư thuận lợi bằng những chính sách khuyến khích đầu tư với những ưu đãi đặc biệt cụ thể như sau: i) Cần tiếp tục đơn giản hoá thủ tục đăng ký đầu tư, ở những lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Nghĩa là nhà nước chủ yếu xác định những lĩnh vực không cần hoặc hạn chế đầu tư nước ngoài, còn lại thì các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước được hưởng những qui định như nhau; ii) Phân định rõ và xoá bỏ những chồng chéo về quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ
yếu là giữa Bộ Kế hoạch - Đầu tư, chính quyền cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương và Ban quản lý các KCX - KCN; iii) Để phát huy hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường đóng vai trò của pháp luật trong quản lý dự án đầu tư, hệ thống pháp luật về đầu tư cũng phải được xây dựng một cách thống nhất, minh bạch, khả thi. iv) Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kĩ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đối với thị trường trong nước
Thị trường trong nước còn rất nhiều tiềm năng cần khai thác và tạo uy tín đối với người tiêu dùng nội địa, trước hết là là vùng Duyên Hải miền Trung, với các giải pháp sau:
Xây dựng mối liên hiệp hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trên địa bàn để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguyên vật liệu..., tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán, chèn ép gây rối loạn thị trường. Phát triển thị trường nội địa bằng cách đưa ra những sản phẩm tốt nhất có thể, kiểu dáng, mẫu mã đẹp và đẳng cấp quốc tế nhưng giá thì bán chỉ giá Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát Triển Nguồn Nhân Lực, Tạo Nền Tảng Và Động Lực Cho Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức
- Các Giải Pháp Nhằm Tiếp Tục Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Thành Phố Đà Nẵng
- Thu Hút Và Sử Dụng Có Hiệu Quả Nguồn Vốn Đầu Tư Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức
- Năm Cuối Thế Kỷ Xx, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng - 22
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng - 23
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
Mở rộng hệ thống phân phối nhằm nâng cao thị trường nội địa bằng việc quảng bá hình ảnh doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang web của ngành, thành phố tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia Hội chợ, triển lãm...Bên cạnh việc mở rộng thị trường ở các thành phố lớn thì các doanh nghiệp cũng phải chú ý tới thị trường nông thôn, đây là thị trường đầy tiềm năng. Do sự chênh lệch về thu nhập nên thị trường này thường bị các doanh nghiệp bỏ ngỏ. Hiện nay, đời sống người nông dân đã nâng lên mức đáng kể nên nhiều mặt hàng trước kia coi là xa xỉ thì nay họ rất cần nhất là đối với những mặt hàng công nghiệp tiêu dùng lâu bền mang tính
phổ biến như: tivi, phương tiện nghe nhìn, máy giặt, đồ điện tử... và các dịch vụ phục vụ cuộc sống và sinh hoạt của con người.
Thành phố khuyến khích các doanh nghiệp và hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp thuê các chuyên gia giỏi về kỹ thuật, quản lý trong một thời gian nhất định để giúp doanh nghiệp chuyển giao CN, đổi mới phương pháp quản lý nhằm tạo đột phá về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nhất là đối với những ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết và phối hợp phát triển với các tỉnh, thành phố khác trên cơ sở phát huy thế mạnh đặc thù của nhau để cùng phát triển, hai bên cùng có lợi trên một số lĩnh vực như: phối hợp trong việc khai thác, sử dụng hệ thống cảng Đà Nẵng; phối hợp trong việc phát triển du lịch; phối hợp với các địa phương ven biển xây dựng và khai thác các trung tâm hậu cần nghề cá.
4.2.2.6. Mở rộng quan hệ đối ngoại
Thành phố Đà Nẵng trong những năm qua luôn chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, đối tác kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài, thu hút đầu tư, kêu gọi các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, viện trợ phi chính phủ, xúc tiến thương mại, du lịch, quảng bá hình ảnh thành phố được đẩy mạnh. Để thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại, thành phố cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
- Đẩy mạnh công tác thông tin về ngoại giao kinh tế.
Xây dựng và hình thành cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan, ban ngành làm công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại với các cơ quan và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Định kỳ hàng năm có kế hoạch trao đổi thông tin định hướng về nhu cầu mở rộng thị trường, hợp tác quốc tế để các cơ quan làm công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại kịp thời nắm bắt và phục vụ công tác vận động, xúc tiến nhanh chóng, hiệu quả. Định kỳ 6 tháng tổ chức giao ban kinh tế đối ngoại giữa lãnh đạo thành phố với các sở, ban, ngành.
Hình thành cơ chế cung cấp thông tin định kỳ cho các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, các địa phương nước ngoài có quan hệ hợp tác với thành phố nhằm duy trì quan hệ và tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan này trong việc xúc tiến và triển khai các chương trình hợp tác đầu tư.
- Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác ngoại giao kinh tế
Bổ sung và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại tại các cơ sở, ban, ngành, địa phương của thành phố. Đảm bảo tại các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có ít nhất từ 1 đến 2 cán bộ kiêm nhiệm được đào tạo về đối ngoại, am hiểu các vấn đề hợp tác quốc tế. Phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành, Trung ương thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn về công tác ngoại giao kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ thành phố. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ biên phiên dịch của thành phố, sẵn sàng tham gia biên phiên dịch cho các hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại của thành phố, các hội nghị quốc tế lớn. Tập trung tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ giỏi các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Nhật, Hàn, Trung, Thái, Lào.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước, trong khu vực và trên thế giới
Tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế, các hiệp hội thành phố lớn trên thế giới. Phát huy vai trò là thành viên của các mạng lưới như: Hành lang Kinh tế Đông - Tây, hợp tác giữa các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, mạng lưới khu vực các chính quyền địa phương quản lý dân cư, trung tâm thông tin đô thị châu Á tại Kobe, diễn đàn các thành phố thế giới...
Hàng năm thành phố tổ chức các đoàn đi công tác nước ngoài để xúc tiến quan hệ hợp tác theo hướng đưa nội dung kinh tế, tập trung xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, hợp tác khoa học kỹ thuật, giáo dục làm trọng tâm. Tăng cường phối hợp với các cơ quan trung ương để lãnh đạo thành phố tham gia các đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước thăm và làm việc tại các
quốc gia có tiềm năng hợp tác. Vận động các đoàn nguyên thủ quốc gia, đoàn cấp cao và các tập đoàn kinh tế lớn đến thăm, làm việc và tìm hiểu cơ hội hợp tác tại Đà Nẵng. Tranh thủ sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài trong công tác quảng bá hình ảnh thành phố, xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch cũng như việc tư vấn, thẩm tra năng lực của đối tác nước ngoài. Hàng năm, chủ động lập chương trình hợp tác giữa thành phố Đà Nẵng với cơ quan đại diện Việt Nam tại một số quốc gia có tiềm năng hợp tác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ, Úc, EU, ASEAN... và có đánh giá định kỳ về kết quả chương trình hành động này.
Nghiên cứu, đề xuất thành lập văn phòng đại diện thành phố Đà Nẵng tại những thị trường giàu tiềm năng, trước hết ở Mỹ, Hàn Quốc, xúc tiến, thúc đẩy hợp tác theo mô hình của văn phòng đại diện Đà Nẵng tại Tokyo.
4.2.2.7. Ứng phó và khắc phục hậu quả các sự cố môi trường
Trong thời kỳ quy hoạch để đạt mục tiêu phấn đấu trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020, nhiều dự án xây dựng khu công nghiệp, đô thị, thành phố ngày càng được mở rộng ra…Nhưng bên cạnh đó sẽ có tác động không nhỏ đến môi trường do: phát triển sản xuất công nghiệp, phát triển du lịch, quá trình đô thị hóa dẫn tới làm mất đất rừng, ô nhiễm về nước thải, ô nhiễm không khí, rác thải sinh hoạt…vì vậy theo tác giả cần có những giải pháp cụ thể sau:
Đối với các khu công nghiệp và cơ sở công nghiệp: Có kế hoạch và kiên quyết di dời các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm lớn ra xa các khu dân cư, chuyển vào các khu công nghiệp đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống thiết bị lọc bụi và hấp thụ khí độc ở các doanh nghiệp trước khi thải vào môi trường không khí; ứng dụng CN tiên tiến đối với hệ thống xử lý nước thải của doanh nghiệp, các khu, cụm công nghiệp trước khi xả vào hệ thống sông ngòi.
Quản lý công nghiệp theo xu hướng hiện đại trên cơ sở tiếp tục thực
hiện có hiệu quả chương trình quản lý ô nhiễm công nghiệp thành phố, đưa
vào áp dụng phổ biến các giải pháp kỹ thuật trong quản lý công nghiệp trong
5 năm tới thực hiện sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, đổi mới CN…từng bước xây dựng các khu công nghiệp sinh thái đến năm 2020. Sắp xếp các loại hình công nghiệp phù hợp trong các khu công nghiệp và đầu tư thêm các dự án xử lý hoặc tái chế chất thải tại chỗ, từng bước xây dựng khu công nghiệp thân thiện môi trường. Thực hiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các cơ sở công nghiệp vi phạm vần để xả thải ra môi trường.
Đối với khí thải từ các dây truyền sản xuất cần phải thường xuyên định kỳ quan trắc mức độ ô nhiễm, phân tích thành phần khí thải từ nguồn thải và ở các khu vực dân cư lân cận. Nếu mức độ ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép phải có biện pháp khắc phục ngay hoặc áp dụng biện pháp đình chỉ, di dời các cơ sở sản xuất ra xa khu vực dân cư để đảm bảo an toàn môi trường sống.
Đối với khu đô thị và nông thôn: Phát triển cây xanh nhằm đáp ứng các mục tiêu môi trường của đề án xây dựng thành phố môi trường. Tăng cường việc sử dụng các phương tiện công cộng, phương tiện sử dụng nhiên liệu gas để giảm thiểu ô nhiễm và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
Thực hiện các mô hình quản lý mới nhằm nâng cao năng lực quản lý rác thải cho thành phố theo hướng hiện đại. Tăng mạng lưới thu gom đến những vùng nông thôn, chuyển đổi lịch thu gom vào ban đêm và thu gom trực tiếp, xóa các trạm trung chuyển gây ô nhiễm, giảm dần thùng rác trên địa bàn, tăng tỷ lệ rác tái sử dụng, tái chế, kiểm soát chặt chẽ việc đổ thải, phế thải.
Tuyên truyền và nâng cao nhận thức của người dân,tổ chức, doanh nghiệp về bảo vệ môi trường: Các địa phương đoàn thể, cơ quan, đơn vị tiếp tục thường xuyên hơn trong công tuyên truyền, ra quân vệ sinh môi trường để cộng đồng có chuyển biến mạnh mẽ trong hành động. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền xây dựng hành vi thân thiện môi
trường, từng bước thay đổi thói quen tiêu dùng góp phần giảm thiểu rác thải.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng, tác giả rút ra một số kết luận sau đây:
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường cần thiết để rút ngắn quá trình chuyển kinh tế xã hội của nước ta nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng sớm trở thành một xã hội hiện đại. Để thực hiện con đường này, cần phải tìm ra được phương thức gắn kết ba quá trình trên trong một cơ cấu và cơ chế thích hợp. Xuất phát từ điều kiện khoa học, CN và kinh tế trên thế giới, trong nước hiện nay, con đường gắn kết CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đòi hỏi phải kết hợp phát triển CN truyền thống với CN hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển khoa học và CN, phổ cập CN thông tin, kết hợp CN ngoại sinh và nội sinh.
Do CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá trình kinh tế-xã hội, nên việc thực hiện phải chịu tác động bởi nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan. Đó là các nguồn lực, tiềm năng của đất nước, của địa phương về tài nguyên, vốn, nhân lực và khoa học, CN; độ mở của nền kinh tế với bên ngoài và hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp, sự năng động của cộng đồng doanh nghiệp. Việc sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực, tiềm năng này là điều kiện bảo đảm thành công của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức của mỗi tỉnh, thành phố.
Để có thêm căn cứ trong lựa chọn giải pháp phát triển trong giai đoạn CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức của thành phố Đà Nẵng, luận án nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore, Hàn Quốc, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh về quá trình này, rút ra 5 bài học kinh nghiệm có thể vận dụng.
Dựa vào những phân tích lý thuyết, kinh nghiệm thực tiễn, tác giả luận án đã khảo sát thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay, chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này. Thực tế cho thấy những kết quả đạt được về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng vẫn chưa được như mong muốn. Thành phố đang vấp phải tình trạng phát triển chủ yếu dựa vào tài nguyên, tăng lượng vốn và lao động kỹ năng thấp. Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, thành phố Đà Nẵng còn nhiều việc cần phải làm. Phải chuyển sang phát triển theo chiều sâu, coi trọng tri thức, khoa học và CN; phải phát triển và sử dụng nhân lực chất lượng cao, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp.
Để thực thi có hiệu quả các yêu cầu trên trong thời gian tới, vấn đề là phải đưa ra được các dự báo chính xác về bối cảnh, triển vọng, xác định đúng phương hướng và đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ. Phương hướng thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là tiếp tục tìm ra hướng để gắn kết các quá trình phát triển, phấn đấu đưa Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp phát triển bền vững vào trước năm 2020. Giải pháp để thực hiện phương hướng này là tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ và người dân về tầm quan trọng và con đường CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; tăng cường công tác dự báo, nâng cao hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền thành phố; khai thác, sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực nhất là nguồn lực trong thành phố, trong nước về nhân lực, khoa học, CN, vốn; coi trọng cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực và thu hút nguồn lực từ bên ngoài…