Xu hướng toàn cầu hoá, xu hướng khu vực hoá đang và sẽ tiếp tục được đẩy nhanh và bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bối cảnh quốc tế trong thời kỳ 2006-2010 sẽ tác động vào nền kinh tế Việt Nam thông qua quan hệ hợp tác của ta với các thị trường và các đối tác, trước hết là 3 đầu tầu kinh tế thế giới: Nhật bản, Hoa Kỳ và EU.
Với Nhật Bản, quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu. Nhật Bản tiếp tục là một trong những thị trường lớn nhất và tỷ trọng xuất khẩu của nước ta sang thị trường Nhật Bản có thể tăng trong 5 năm tới. Hiệp định xúc tiến và bảo hộ đầu tư Nhật Bản- Việt Nam và sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ phát huy tác dụng. Nhật Bản tiếp tục cam kết ODA cho Việt Nam, song xu thế mở rộng hình thức ODA có ràng buộc (chỉ có các công ty Nhật Bản nhận được các công trình ODA) có thể xảy ra làm giảm mức độ ưu đãi của nguồn vốn này. Ngoài lợi ích kinh tế, Nhật Bản còn chủ trương đẩy mạnh quan hệ toàn diện với ta còn vì mục đích chính trị. Yếu tố này cần được quan tâm trong chính sách đối tác của ta để khai thác các cơ hội kinh tế từ Nhật Bản.
EU là thị trường quan trọng, đặc biệt đối với hàng hoá xuất khẩu có hàm lượng lao động cao (dệt may, giày dép, thuỷ sản...). Thị trường 25 nước EU hiện tại vẫn là chủ yếu do dung lượng lớn và có tập quán tiêu thụ hàng hoá của nước ta. Phát triển toàn diện quan hệ hợp tác với Pháp, Đức, Anh sẽ tác động tíchcực đối với toàn khối EU.
Với Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ sẽ tiếp tục phát huy tác dụng, tạo thế đứng cho ta ở thị trường rộng lớn và đa dạng này. Tuy nhiên, đối với Hoa Kỳ, hợp tác kinh tế lôn luôn song hành với quan hệ chính trị. Yếu tố ngoại giao rất quan trong để khai thác yếu tố kinh tế. Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, vẫn là trọng tâm chính, bên cạnh đó ta cần tranh thủ nhập khẩu công nghệ nguồn.
Ngoài các đối tác kinh tế trên, Trung Quốc là một quốc gia có khả năng trở thành một trong những trung tâm kinh tế mới của thế giới trong 5-10 năm tới đây. Hợp tác mạnh mẽ kinh tế với Trung Quốc sẽ đảm bảo cho ta cả lợi ích chính trị lẫn kinh tế và an ninh.
Các nước ASEAN, Ôxtraylia, Hàn quốc tiếp tục là đối tác quan trọng, tin cậy cả về thương mại và đầu tư.
Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế quốc tế cũng đăth ra nhiều thách thức lớn, nhất là sức ép cạnh tranh khi gia nhập WTO và thực hiện đầy đủ các cam kết trong khuôn khổ AFTA, APEC, ASEM. Do vậy, chúng ta phải nhanh chóng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động tránh được những khó khăn gây ra từ quá trình phân công lại lao động quốc tế và tổ chức lại nền kinh tế thế giới. Bên cạnh việc duy trì các mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế đã có, cần mở rộng hơn nữa mối quan hệ kinh tế với các nước khối EU, đặc biệt là với Cộng hoà Pháp, cộng hoà liên bang Đức, triển khai nhanh chóng Chương trình hợp tác với Nhật Bản, tranh thủ tối đa hiệp định thương mại Việt Mỹ và lợi thế của việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới... để tạo ra những khả năng mở rộng thị trường, tăng xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư và phát triển những mối hợp tác kinh tế khác .
3.1.2 Tình hình trong nước.
Về mặt thuận lợi: Sau khi cơ bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005, năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, bước đầu hiện đại hoá, từ đó phát huy được thế mạnh của từng ngành, từng vùng, chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện, các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế nước ta đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 10
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 11
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Hiện Nay.
- Một Số Giải Pháp Đổi Mới Kế Hoạch Hóa Kinh Tế Vĩ Mô.
- Nâng Cao Chất Lượng Kế Hoạch Trung Hạn 5 Năm.
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
Nước ta được thế giới đánh giá có sự ổn định cao về chính trị, đang trở thành một điểm đến an toàn của các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế. Sự ổn định chính trị – xã hội là nền tảng vững chắc vàlà nhân tố thuận lợi lớn nhất
cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và đó cũng là thế mạnh cần khai thác của nước ta hiện nay.
Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Những cơ chế chính sách ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, thu hút cao hơn các nguồn vốn đầu tư toán xã hội, đặc biệt là phát huy tối đa nguồn nội lực để chủ động hướng vào các mục tiêu đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) đánh dấu bước đổi mới mạnh mẽ hơn về tư duy kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để hoạch định các cơ chế, chính sách thông thoáng trong việc thu hút các nguồn lực và cải thiện môi trường đầu tư cho việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngay trong năm 2005 có ý nghĩa rất quan trọng để có thể phát triển kinh tế nhanh hơn trong kế hoạch 5 năm tới (nếu không thực hiện được nhiệm vụ này trong năm 2005 và phải chuyển sang năm 2007 thì những cam kết quốc tế của ta sẽ nặng nề hơn và điều kiện phát triển chung 5 năm 2006-2010 sẽ khó khăn hơn rất nhiều).
Mối quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển, hàng xuất khẩu của Việt Nam đã đứng vững được trên nhiều thị trường và có triển vọng sẽ được mở rộng. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chủ động, việc thực hiệncác Hiệp định thương mại song phương và đa phương, việc trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức thương mại thế giới... sẽ tạo ra thế phát triển mới của đất nước.
Bên cạnh đó những kết quả tích cực đạt được trong tiến trình cải cách hành chính thời gian qua, nhất là những cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ... đã có những tác động tích cực trong việc chỉ đạo điều hành thực hiện các mục tiêu của kế hoạch.
Tuy nhiên, khó khăn và thách thức cũng rất lớn. Qui mô sản xuất nhỏ bé, GDP bình quân đầu người năm 2005 mới khoảng 580 USD, thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp của thế giới, thu nhập và tiêu dùng của dân cư chưa
đủ tạo sức bật mới đối với sản xuất và phát triển thị trường, hệ thống tài chính, tiền tệ còn nhiều yếu kém, bất cập.
Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với yêu cầu trong khi đó lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết AFTA, WTO và các hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp. Tốc độ phát triển các ngành dịch vụ còn chậm, nếu khai tốt thì đây là dư địa lớn để phát triển trong 5 năm tới.
Một số lĩnh vực xã hội còn yếu kém. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn, tệ nạn xã hội còn nghiêm trọng, trật tự, an ninh ở một số vùng chưa tốt.
Cải cách hành chính tiến hành chậm, tình trạng tham nhũng vẫn còn nặng nề, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn hạn chế.
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HÓA KINH TẾ VĨ MÔ
Đại hội IX của Đảng đã đề ra yêu cầu:"Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr (102).Để thực hiện yêu cầu này, việc đổi mới công tác kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong thời gian tới phải quán triệt những phương hướng chủ yếu sau:
1. Kế hoạch hóa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Để làm được việc đó, cần tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường; bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi Doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi ở Việt Nam, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hóa. Nhà nước một mặt phải xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của mình, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô của Nhà nước cần xác định mục tiêu, giải thích rò ý nghĩa của mục tiêu đó đối với sự phát triển trong tương lai, xác định rò mức độ và cách thức mà khu vực kinh tế Nhà nước thực hiện để góp phần vào thực hiện mục tiêu đã định, nêu lên những lợi ích và phát triển dự tính đối với khu vực kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác trong quá trình thực hiện kế hoạch, áp dụng các chính sách tác động đến khu vực kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác để họ hành động theo định hướng Nhà nước mong muốn. Đối với các thành phần kinh tế khác, thì kế hoạch không có tính áp đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích để khuyến khích họ tự nguyện hành động theo hướng mục tiêu kế hoạch đã đặt ra . Như vậy, muốn các Doanh nghiệp ứng xử theo kế hoạch của Nhà nước thì kế hoạch hóa và chính sách phải phù hợp với lợi ích của Doanh nghiệp.
Như vậy, đổi mới kế hoạch hóa phải gắn liền với đổi mớ i cơ chế quản lý kinh tế nói chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa phải phù hợp với cơ chế thị trường, phải đảm bảo sự phân định giữa quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh ở các Doanh nghiệp Nhà nước. Công tác điều hành kế hoạch phải được thực hiện thông qua những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu, phối hợp sử dụng những biện pháp gián tiếp và biện pháp trực tiếp .
2. Kế hoạch hóa góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Nhân tố quyết định thành công và hiệu quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là khoa học và công nghệ. Đại hội IX của Đảng khẳng định:"Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.tr 112). Kết quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và của tiến trình hội nhập phụ thuộc rất nhiều vào năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mà yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh một cách bền vững và lâu dài là khoa học và công nghệ. Chính vì lý do này mà nội dung đổi mới kế hoạch hóa cần đặc biệt chú trọng vấn đề gắn nghiên cứu khoa học với đổi mới công nghệ với phát triển kinh tế.
Tốc độ phát triển công nghệ ngày càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ mới ngày càng nhiều đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho công tác kế hoạch hóa là phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng" đi tắt, đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Trong tình hình ngân sách còn khó khăn, một biện pháp hữu hiện cho vấn đề này là khuyến khích chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước ngoài. Trong những năm vừa qua, đa số các dự án đầu tư nước ngoài hướng chủ yếu vào thị trường nội địa với công nghệ ở mức trung bình, chưa góp phần làm tăng rò rệt sức cạnh tranh của nền kinh tế. kế hoạch hóa trong những năm tới cần hướng tới những chính sách ưu tiên hơn nữa cho việc chuyển giao công nghệ và khuyến khích mạnh hơn các nhà đầu tư trong và ngoài
nước áp dụng những công nghệ tiên tiến thông qua những biện pháp như hình thành các khu công nghệ cao, hỗ trợ bằng chính sách thuế, hỗ trợ cho những trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ, hình thành các quỹ hỗ trợ công nghệ, quỹ hỗ trợ xuất khẩu…
Kế hoạch hóa phải đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian trước mắt, việc hình thành những chính sách kinh tế để ứng phó với cuộc khủng hoảng trong khu vực là một nhiệm vụ cấp bách của công tác kế hoạch hóa.
Cân bằng cán cân thanh toán là một trong bốn mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế. Quá trình phát triển trong những năm qua đã để lại một số vấn đề cần phải giải quyết ngay như: các khoản nợ nước ngoài, tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai tương đối cao… Tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực đã làm cho những vấn đề khó khăn của kinh tế đối ngoại càng thêm phức tạp. Đó là những thách tức to lớn đối với điều tiết tổng thể nền kinh tế nói chung và đổi mới kế hoạch hóa nói riêng. Nó đòi hỏi phải nhanh chóng hình thành những chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo hướng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, hỗ trợ cho quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta.
Những biện pháp xử lý vấn đề trên mà không ảnh hưởng nhiều đến ngân sách là giảm đến mức tối thiểu các thủ tục"xin-cho” không cần thiết, công khai các thủ tục hành chính, dân chủ hóa trong tuyển chọn, đấu thầu dự án đầu tư và xuất khẩu, hỗ trợ thông tin cho các Doanh nghiệp, giảm tính độc quyền của các tổng Công ty lớn, xác định một cách hợp lý hơn mối quan hệ giữa bảo hộ sản xuất trong nước và tự do hóa thương mại.
3. Kế hoạch hóa bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Nghị quyết Đại hội IX đã đề ra yêu cầu:"Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển " (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr 88): Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến độ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Công tác kế hoạch hóa phải đảm bảo sự thống nhất giữa yêu cầu phát triển kinh tế với bảo đảm chính sách xã hội theo tinh thần:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân bổ hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi cho người lao động.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên cho mỗi người dân, c ác Doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
Trong những năm trước mắt, công tác kế hoạch hóa phải góp phần thiết thực giải quyết tốt một số vấn đề xã hội cấp bách như:
(1) Tập trung sức tạo việc làm: Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế – xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi