công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Tiếp tục phân bố lại dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược kinh tế, an ninh, quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
(2) Thực hiện xóa đói giảm nghèo. Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
4. Kết hợp kế hoạch hóa theo ngành với kế hoạch hóa theo địa phương và vùng lãnh thổ.
Kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội có một nội dung rất cơ bản là sự thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kể cả cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ. Từ kinh nghiệm phát triển, có thể rút ra một số kết luận sau đây về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu các ngành công nghiệp nói riêng, là một quá trình tiến hóa tuần tự và mang tính nội tại phải trải qua nhiều giai đoạn. Những tác động của kế hoạch hóa chỉ có thể đẩy nanh hoặc rút ngắn quá trình chuyển dịch cơ cấu, chứ không thể bỏ qua một giai đoạn nào.
Hai là, trong thời kỳ toàn cầu hóa, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia chủ yếu vẫn phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, kỹ năng và lợi thế hiện tại. Với cách nhìn như trên, Nhà nước cần đặc biệt lưu ý và ưu tiên hỗ trợ những ngành trọng điểm của nền kinh tế là những ngành có tỷ trọng lớn và tốc độ phát triển cao trong GDP, trong tổng số lao động sử dụng và trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời cần chú trọng khuyến khích một
số ngành công nghệ cao, có sức lan tỏa lớn và tạo động lực phát triển bền vững trong tương lai.
Quy hoạch hay chiến lược phát triển ngành cần được xây dựng theo định hướng mở, trước hết phải tính đến xu hướng phát triển cung và cầu trên thị trường thế giới; phải khắc phục khuynh hướng"tự cung,tự cấp” khép kín. Tuy nhiên quy hoạch phát triển ngành, chỉ mang tính hướng dẫn và tham khảo, không phải là cơ sở hay công cụ phân bổ vốn đầu tư theo mệnh lệnh để thực hiện quy hoạch đó.
Nguyên tắc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng là nguyên tắc chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Đây là nhiệm vụ trước hết của Nhà nước trung ương. Nhà nước trung ương thực hiện nhiệm vụ này theo hai cách. Một là, ưu tiên đầu tư của Nhà nước cho các vùng kém phát triển. Hai là, dành chính sách ưu đãi ở mức cao hơn đối với khu vực kém phát triển để thu hút đầu tư tư nhân vào các vùng đó. Về đằu tư của Nhà nước, do nguồn vốn có hạn nên kinh phí thực hiện phát triển vùng trong một giai đoạn cần tập trung vào một hoặc một số ít mục tiêu nhất định. Thí dụ, trong một số năm tới, nguồn lực phát triển vùng chủ yếu tập trung vào phát triển giáo dục tiểu học ở vùng sâu, vùng xa chẳng hạn.
Việc phân cấp kế hoạch giữa Trung ương và địa phương cần được xác định hợp lý và rò ràng. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương trước hết do chính quyền địa phương quyết định. Nhà nước trung ương chỉ tập trung thực hiện những mục tiêu có tính hệ thống, cân đối, mà các cấp chính quyền địa phương không thể thực hiện được. Nguyên tắc của việc phân cấp nên là: Việc gì chính quyền cấp dưới, do tính chất của công việc, không thể thực hiện được thì mới chuyển lên trên, thay cho nguyên tắc phân cấp hiện nay trong kế hoạch chủ yếu dựa vào quy mô công trình chứ không phải dựa vào tính chất công việc. Việc phân cấp luôn phải đi kèm với những biện pháp kiểm tra giảm sát thích hợp; vì thế việc giao thêm quyền hạn cho các cấp chính quyền địa phương trong kế hoạch hóa. Đặc biệt là kế hoạch sử dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 11
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Hiện Nay.
- Phương Hướng Đổi Mới Kế Hoạch Hóa Kinh Tế Vĩ Mô
- Nâng Cao Chất Lượng Kế Hoạch Trung Hạn 5 Năm.
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 16
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 17
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
những khoản chi từ ngân sách cấp trên, luôn luôn đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn, theo nguyên tắc : quyền hạn càng lớn, trách nhiệm càng cao.
5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô.
Phương hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa đã được Đại hội VIII của Đảng xác định là:"Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa, hướng vào nâng cao chất lượng xã hội chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn. Nâng cao chất lượng các cân đối lớn và dự báo những khả năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra các mục tiêu kinh tế, các chính sách giải pháp và định hướng về phân bổ nguồn lực để thực hiện. Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định các dự án đầu tư. Thiết lập quy chế kết hợp chặt chẽ việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch với việc hoạch định chính sách và thể chế để dẫn dắt, điều hành nền kinh tế theo định hướng kế hoạch, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch” .
Để cho kế hoạch hóa thật sự trở thành công cụ cơ bản trong việc định hướng thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và bền vững, thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác kế hoạch hóa phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Trước hết, phải coi trọng công tác dự báo, nhất là dự báo trung hạn và ngắn hạn về kinh tế – xã hội và xu thế phát triển trong và ngoài nước để có cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các chiến lược phát triển, cũng như cho công tác điều hành tầm vĩ mô.
Hai là, xây dựng chiến lược cho 10 năm tiếp theo ( 2001-2010) và rà soát lại các quy hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế, quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm đã được thông qua cho phù hợp với yêu cầu mới, xu thế phát triển và hội nhập kinh tế trong vùng và các nước.
Bà là, tổ chức xây dựng các chương trình, dự án phát triển có hiệu quả để có thể khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhân lực và các lợi thế so sánh của nước ta, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài theo định hướng của kế hoạch.
Bốn là, để thực hiện chức năng chủ yếu của kế hoạch hóa là thúc đẩy sự hình thành cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, phải cải tiến nội dung xây dựng kế hoạch hàng năm một cách thiết thực, giảm những khâu trung gian, giữ vững cân đối chủ yếu, nhất là cân đối giá trị, đồng thời từng bước chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hóa phát triển kinh tế – xã hội 5 năm với nội dung bao quát toàn bộ hoạt động của các thành phần kinh tế, xác định hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô, các yêu cầu tăng trưởng kinh tế, các cơ cấu và mối quan hệ hợp lý của nền kinh tế.
Năm là, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và kích thích tất cả các thành phần kinh tế phát triển với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HÓA KINH TẾ VĨ MÔ.
Việc đổi mới kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô thời gian tới ở Việt Nam nhằm vào các yêu cầu chủ yếu sau đây:
Một là, xác định rò yêu cầu về nội dung của từng loại hình kế hoạch, mối quan hệ giữa các loại hình kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN .
Hai là, xác định rò thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương, của Doanh nghiệp và dân cư trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện kế hoạch.
Ba là, xác định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Bốn là, tạo dựng từng bước cơ sở và điều kiện để nâng cao chất lượng kế hoạch hóa theo hướng đảm bảo tính khoa học, toàn diện, hệ thống và hiện
thực của nội dung kế hoạch, có tính đến các yếu tố của cách mạng công nghệ, xu thế toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển.
Theo tinh thần đó, cần tiến hành những biện pháp đổi mới cơ bản trên một số lĩnh vực chủ yếu của công tác kế hoạch hóa.
3.3.1. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược kinh tế – xã hội.
Kế hoạch hóa là một quá trình liên tục, bao gồm chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế
– xã hội 5 năm, kế hoạch hàng năm và chỉ đạo, điều hành thực hiện.
* Về phương pháp luận xây dựng chiến lược.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội có nhiệm vụ hoạch định hướng phát triển cơ bản của đất nước trong khoảng thời gian tương đối dài hạn, là cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước được công bố trước toàn dân và cộng đồng quốc tế về đường lối và cách thức lãnh đạo phát triển đất nước . Nội dung của chiến lược bao gồm việc xác định các mục tiêu định tính trên các lĩnh vực như: tăng tưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, xu hướng biến đổi chất lượng cuộc sống của dân cư trên các vùng của đất nước, xu hướng biến đổi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, khả năng bảo đảm an ninh quốc gia; xác định và quan điểm và nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy đất nước phát triển theo các định hướng nói trên.
Chiến lược ở Việt Nam có thời hạn 10 năm, nhưng theo chu kỳ 5 năm cần được xem xét, sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy, mỗi kỳ Đại hội Đảng sẽ là một lần thông qua chiến lược mới hoặc điều chỉnh chiến lược. Cụ thể là, từ nay bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ 2001 – 2010; đến khoảng 2003 bắt đầu xem xét đánh giá lại, và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ 2006 – 2015. Cứ tiếp
tục như vậy vào khoảng năm 2008 sẽ xem xét, đánh giá lại tình hình và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ tiếp theo.
Việc xây dựng chiến lược phát triển cần do Hội đồng nghiên cứu chiến lược thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thủ tướng Chính phủ làm chủ tịch Hội đồng, các thành viên khác của Hội đồng do Thủ tướng bổ nhiệ m. Vừa qua, để chuẩn bị Đại hội IX, một Tiểu ban kinh tế của TW Đảng đã được thành lập do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng tiểu ban, có nhiệm vụ xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và Kế hoạch 5 năm ( 2001-2010)
Một năm trước khi thông qua, dự thảo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân tham gia thảo luận. Hội đồng nghiên cứu chiến lược có trách nhiệm tổ chức các hình thức thích hợp để thu thập và tiếp thu ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân trên các vùng của đất nước.
Chiến lược phát triển chung cũng như những chiến lược phát triển phát triển ngành ( đối với một số ngành quan trọng) không nên thông qua Quốc hội như một Nghị quyết. Hiến pháp và các đạo luật được Quốc hội thông qua có hiệu lực trong nhiều nhiệm kỳ tiếp theo, trong khi Nghị quyết của Quốc hội chủ yếu quy định những việc trong một nhiệm kỳ. Hơn nữa, quyết định của Quốc hội thường mang tính chất luật; trong khi đó văn bản chiến lược thường là những phương án, những kịch bản có thể thay đổi và uốn theo các điều kiện bối cảnh cụ thể. Tuy vậy, nên có báo cáo chiến lược trình Quốc hội để là cơ sở và làm nền cho việc thảo luận và việc thông qua các kế hoạch 5 năm, và cả các kế hoạch hàng năm ở những điểm cần thiết.
* Về nội dung chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Những vấn đề cốt yếu nhất trong nội dung chiến lược là xác định mục tiêu chiến lược, đề ra định hướng chiến lược và lựa chọn khâu then chốt có tính đột phá.
a) Về xác định mục tiêu chiến lược: Chúng ta xây dựng và thực hiện chiến lược 10 năm (2001-2010) trong tình hình trong nước cũng như bối cảnh
quốc tế có nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức. Thế và lực của đất nước đã mạnh hơn trước. Cùng với lợi thế về vị trí địa lý, tiềm năng phát triển từ trí tuệ, lao động, tiền vốn, tài nguyên đất đai, rừng, biển, thị trường gần 80 triệu dân.. còn dồi dào. Quan hệ hợp tác đối ngoại thuận lợi hơn nhiều so với thời kỳ trước, tạo thêm điều kiện tranh thủ nguồn lực bên ngoài nhằm phát huy tốt hơn nội lực. Kỷ nguyên bùng nổ thông tin, phát triển nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để phát huy tiềm năng trí tuệ của người Việt Nam, đưa đất nước vượt lên.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn là nước nghèo trên thế giới, trình độ phát triển còn kém nhiều quốc gia trong khu vực. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm trong thời gian qua, phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, khai thác lợi thế so sánh bằng tất cả sự sáng tạo và tính tích cực của người lao động Việt Nam, tranh thủ thời cơ, tận dụng thuận lợi, vượt qua thách thức, đưa đất nước tiến lên nhanh và vững chắc. Không làm được như vậy, sự tụt hậu xa hơn về trình độ phát triển so với các nước xung quanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới niềm tin của nhân dân, tới sự ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc gia.
Mục tiêu tổng quát đặt ra cho giai đoạn 10 năm (2001-2010) đã được xác định là: Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Chất lượng các mặt đời sống của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể. thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được vận hành thông suốt. Nguồn lực con người, khoa học – công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng được tăng cường. Vị thế của đất nước trong quan hệ hợp tác quốc tế được củng cố và mở rộng. Tạo được cơ sở vững chắc cho mười năm tiếp sau thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đó, cần xác định các mục tiêu cụ thể cho từng thời đoạn ngắn hơn và cho từng lĩnh vực chủ yếu làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hằng năm.
b) Về đề ra định hướng chiến lược, Đại hội IX đã khẳng định định hướng chiến lược của thời kỳ 10 năm tới là:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh, bền vững, theo một số hướng như:
- Công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn; xây dựng công nghiệp mũi nhọn và dịch vụ cơ bản; dựa trên lợi thế so sánh, phát triển các ngành có hiệu quả và sức cạnh tranh cao.
- Tăng cường năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ, mở rộng và nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng thông tin, đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và trong quản lý, điều hành; tạo tiền đề cho một nền kinh tế tri thức trong tương lai.
- Đề cao chất lượng phát triển; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên cơ sở: tăng nhanh năng suất lao động xã hội; phát huy tối đa mọi nguồn lực phát triển sản xuất, kinh doanh đều khắp; tập trung phát triển một số ngành, một số vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng vượt trội.
Hai là, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nhằm mục tiêu phát triển con người. Nâng cao chất lượng mọi mặt cuộc sống của nhân dân từ ăn, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp cận thông tin, sinh hoạt văn hóa… Tạo cơ hội cho người dân đều được thu hưởng những thành quả phát triển, được bồi dưỡng và có điều kiện phát huy tài năng, đồng thời có trách nhiệm góp sức phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Ba là, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực phát huy cao độ nguồn nội lực. Tiếp tục đổi mới sâu rộng và đồng bộ cả về kinh tế, xã hội và bộ máy Nhà nước, tạo động lực và nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.