Quản lý chi bảo hiểm xã hội tại Tỉnh Nghệ An - 2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Tỉ lệ đóng BHXH là lao động Việt Nam 25

Bảng 1.2: Tỉ lệ đóng BHXH là lao động nước ngoài 25

Bảng 1.3: Mức lương tối thiểu vùng năm 2020 26

Bảng 2.1: Kết quả chi trả trợ cấp 1 lần từ nguồn quỹ BHXH chi trả giai đoạn

2018 - 2020 ............................................................................................ 67

Bảng 2.2: Kết quả thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn tại

Tỉnh Nghệ An giai đoạn 2018 -2020 70

Bảng 2.3: Kết quả chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng tại BHXH Tỉnh Nghệ An giai đoạn 2018 - 2020 71

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Bảng 2.4: Số lượt hồ sơ chi trả các chế độ BHXH từ năm 2018 - 2020 80

Bảng 2.5: Kết quả chi trả các chế độ BHXH từ năm 2018 - 2020 80

Quản lý chi bảo hiểm xã hội tại Tỉnh Nghệ An - 2

Bảng 2.6: Chi khám bệnh, chữa bệnh BHYT giai đoạn 2018-2020 81

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ

Hình:

Hình 1.1. Các chế độ BHXH 28

Hình 2.1: Bộ máy cơ quan BHXH tỉnh Nghệ An 61


Sơ đồ:

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quy trình chi trả trợ cấp một lần do Bưu điện chi trả 66

Sơ đồ 2.2: Số người tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện 2020-2021 67

Sơ đồ 2.3: Sơ đồ quy trình chi trả chế độ BHXH ngắn hạn 69


PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong hệ thống ASXH, thì hệ thống BHXH giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất. Phát triển BHXH sẽ là tiền đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách ASXH, hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro vĩ mô, cả cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên gây ra góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, Chính phủ cũng đều rất quan tâm, chính sách BHXH. Đây là một trong những công cụ quan trọng được sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

Ngay từ khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách BHXH đối với NLĐ, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với sự hình thành của hệ thống BHXH Việt Nam, BHXH Nghệ An được thành lập theo Quyết định 16/QĐ-BHXH ngày 15 tháng 6 năm 1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Trải qua đến nay là 26 năm hoạt động với những kết quả đạt được, BHXH Tỉnh Nghệ An góp phần ổn định chính trị, thức đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn. BHXH Tỉnh Nghệ An là bộ phận cấu thành của BHXH Việt Nam, BHXH Tỉnh Nghệ An có chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của Nhà nước đối với NLĐ trên địa bàn Tỉnh Nghệ An. Theo BHXH Tỉnh thì hiện nay, Nghệ An đang dẫn đầu cả nước vể tổng số người tham gia BHXH tự nguyện. Tính đến hết tháng 9/2020, toàn tỉnh có 68.818 người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm gần 10% tổng số người tham gia BHXH tự nguyện toàn quốc). Số người tham gia BHXH tự nguyện tăng mới từ đầu năm 2020 đến nay là 18.853 người, tăng 37,73% so với năm 2019. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, BHXH Tỉnh Nghệ An, đại diện các phòng chức năng và BHXH các huyện, Thành phố Vinh gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chính sách BHXH nói chung, BHYT, BHTN nói riêng trên địa bàn. Trong đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều DN phải thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc tạm ngừng hoạt động, NLĐ không có việc làm phải nghỉ việc; thu nhập


người dân giảm đã tác động tiêu cực đến việc tham gia, chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN. Công tác thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại đơn vị gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, Nghệ An là Tỉnh có địa bàn rộng, dân số đông, các khu công nghiệp xuất hiện trên địa bàn Tỉnh ngày càng nhiều, do đó số lượng DN, số đối tượng hưởng BHXH ngày càng tăng, đa dạng, phức tạp, số tiền chi BHXH ngày càng lớn nên vấn đề quản lý tốt đối tượng, tổ chức chi kịp thời đúng kỳ, đủ số tiền đến tay người thụ hưởng…. đang là những khó khăn, thách thức không nhỏ đòi hỏi BHXH Tỉnh Nghệ An phải có biện pháp giải quyết kịp thời.

Công tác quản lý chi BHXH có thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH. Quản lý chi BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, cũng là giúp cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách BHXH phát huy vai trò hơn nữa. Trong quá trình thực hiện chính sách trên địa bàn Tỉnh Nghệ An còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót đặc biệt trong công tác quản lý chi và quản lý chi các chế độ cho người hưởng BHXH vẫn còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Việc sử dụng kinh phí của cơ quan BHXH chưa thật sự hiệu quả. Đây là những khó khăn lớn đối với quản lý chi của BHXH Nghệ An trong nhiều năm qua cần được giải quyết, đảm bảo cho NLĐ tham gia BHXH và thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH thuận lợi. Vì vậy, việc nghiên cứu đánh giá công tác quản lý chi BHXH cũng như phân tích nguyên nhân và đề ra kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện công tác quản lý chi BHXH kịp thời, đúng quy định, thuận lợi cho người tham gia BHXH là cần thiết đối với Tỉnh Nghệ An hiện nay và trong thời gian tới.

Xuất phát từ cả lý thuyết và thực tế đó, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý chi bảo hiểm xã hội tại Tỉnh Nghệ An” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý kinh tế.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2.1. Tổng quan về bảo hiểm xã hội

2.1.1. Những nghiên cứu của các học giả ngoài nước

BHXH là một trong những công cụ quan trọng đảm bảo ASXH, trong đó có


rất nhiều vấn đề, quan điểm nhìn nhận khác nhau trong những bối cảnh, môi trường khác nhau chính vì vậy mà có rất nhiều học giả trên thế giới đã nghiên cứu về vấn đề này cụ thể là:

- Ma. Belinda S. Mandigma (2016), “Determinants of Social Insurance Coverage in the Philippines”. Nghiên cứu đã phân tích mức độ bao phủ ASXH, trong đó chiếm ưu thế nhất là BHXH ở Philippines bằng cách xem xét mối quan hệ với các biến số kinh tế và phi kinh tế chính được lựa chọn. Dữ liệu được tác giả tổng hợp trong giai đoạn 2000-2013 và kiểm tra bằng cách sử dụng mô hình tuyến tính tổng quát đa biến. Tác giả sử dụng phương pháp hiệu ứng cố định, hiệu ứng ngẫu nhiên và phương pháp khoảnh khắc tổng quát. Kết quả cho thấy mức độ bao phủ của ASXH được đại diện bởi những người đóng góp hoạt động kinh tế bị ảnh hưởng bởi một số biến số kinh tế như: tính ổn định của nền kinh tế, hình thành vốn, tăng lương, đô thị hóa, phát triển kinh tế và toàn cầu hóa. Phạm vi bảo hiểm đối với người cao tuổi cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế nói trên. Hơn nữa, các động lực phi kinh tế tác động đến tỉ lệ người cao tuổi được hưởng ASXH là lý thuyết nữ quyền, giáo dục, các khu vực phi chính thức và tỷ lệ đói nghèo.

- Louis D. Enoff, Roddy McKinnon (2011), “Social Security Contribution Collection and Compliance: Improving Governance to Extend Social Protection”. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp khảo sát thu thập số liệu từ các tổ chức ASXH và cơ quan thu đóng góp, mục đích chính của bài viết này là thúc đẩy chia sẻ kiến thức và thực hành tốt về thu đóng góp và thực thi tuân thủ. Mặc dù việc thu thập và tuân thủ đóng góp có các khía cạnh bảo vệ xã hội, chính trị và tài chính quan trọng nhưng nghiên cứu này định hướng việc theo đuổi các mục tiêu này như một khía cạnh của quản trị hành chính tốt. Ngoài việc cải thiện mức độ đầy đủ lợi ích và sức khỏe tài chính đạt thành công như vậy là do các nỗ lực của quốc gia nhằm mở rộng phạm vi bảo trợ xã hội.

- Tổ chức Lao động Quốc tế ILO (2013), “Innovations in extending social insurance coverage to independent workers: Experiences from Brazil, Cape Verde, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Philippines, France and Uruguay”. Nghiên cứu


này đã phân tích những kinh nghiệm tương đối thành công của bảy quốc gia đang phát triển và một quốc gia phát triển trong việc cung cấp bảo hiểm cho những NLĐ độc lập. Nhóm tác giả đã tìm cách chứng minh mối liên hệ giữa các kết quả liên quan đến phạm vi bảo hiểm với thực tiễn tài chính, quản lý và tổ chức tài chính ở các quốc gia Brazil, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Pháp và Uruguay. Nghiên cứu đã trình bày chi tiết các chiến lược quốc gia đã tìm cách mở rộng phạm vi bao phủ BHXH thông qua trợ cấp và nhắm mục tiêu theo mức thu nhập. Bên cạnh đó, nêu ra kinh nghiệm của các quốc gia trong đổi mới khi cơ cấu lại khuôn khổ hành chính kết hợp với các chính sách khuyến khích đặc biệt vàđã đạt được những kết quả tích cực. Cuối cùng, nghiên cứu đưa ra những ví dụ về các chương trình đặc biệt cho các công ty nhỏ và rất nhỏ ở một số quốc gia và điều đó có tác động đáng kể đến mức độ bao phủ ASXH.

- Marcelo, B., & Guillermo, C. (2014), “Work and tax evasion incentive effects of social insurance programs: Evidence from an employment-based benefit extension”. Nghiên cứu này chỉ ra cách các chương trình BHXH hình thành động cơ khuyến khích cá nhân tiếp nhận việc làm đã đăng ký và báo cáo thu nhập cho cơ quan thuế. Phân tích dựa trên một cuộc cải cách BHXH ở Uruguay đã mở rộng phạm vi bao phủ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em phụ thuộc của công nhân khu vực tư nhân đã đăng ký. Chiến lược xác định dựa trên sự so sánh giữa các cá nhân có và không có trẻ em phụ thuộc trước và sau khi cải cách. Cải cách đã làm tăng số việc làm đã đăng ký đủ điều kiện hưởng lợi lên 1,6 điểm phần trăm (cao hơn khoảng 5% so với mức cải cách tiên quyết), chủ yếu là do sự gia tăng lực lượng lao động tham gia thay vì chuyển từ việc làm chưa đăng ký sang việc làm đã đăng ký. Sự thay đổi lớn hơn đối với các bậc cha mẹ có con nhỏ và những người trưởng thành sống thử mà công việc của bạn đời không cung cấp cho con cái của các cặp vợ chồng cơ hội tiếp cận lợi ích. Cuối cùng, cải cách đã làm tăng tỷ lệ báo cáo thu nhập được trả lương thấp hơn khoảng 4% (cao hơn 25% so với mức trước cải cách), chủ yếu đối với NLĐ làm việc tại các doanh nghiệp nhỏ.

- Rebecca Holmes, Lucy Scott (2016), “Extending social insurance to informal workers”. NLĐ phi chính thức phải đối mặt với mức độ rủi ro cao nhưng


phần lớn không được hưởng BHXH. Trong khi đó, phụ nữ lao động là phái yếu làm việc trong khu vực phi chính thức phải đối mặt với những rủi ro cao hơn so với nam giới trên thị trường lao động và trong suốt vòng đời. Vì vậy, ngày càng có nhiều quốc gia mở rộng BHXH cho lao động phi chính thức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, các chính sách vẫn còn không rõ ràng về giới. Các cải cách đáp ứng giới có thể đảm bảo tăng mức độ bao phủ của phụ nữ, bao gồm cả nữ lao động phi chính thức, để giải quyết những rủi ro mà họ phải đối mặt như: (i) pháp luật trên thị trường lao động; (ii) công nhận nền kinh tế chăm sóc; (iii) thiết kế chính sách sáng tạo trong các lựa chọn thanh toán và đơn giản hóa các quy trình hành chính; và

(iv) đầu tư vào năng lực cung cấp dịch vụ nhạy cảm về giới.

- Ben Braham Mehdi (2016), “Pension Systems Contribution Determinants: a Cross Sectional Analysis on Tunisia”. Working Papers 20160004, UMR Developpement and Social, Paris 1 Panthéon-Sorbonne University. Nghiên cứu phân tích về bảo hiểm lương hưu dựa trên mật độ đóng góp. Cách tiếp cận này được chứng minh bởi thực tế là tỷ lệ bao phủ không cho thấy dấu hiệu rõ ràng về đóng góp hiệu quả và đặc biệt không thể giải thích mức lương hưu thấp trong khu vực tư nhân được quan sát thấy ở nhiều nước đang phát triển. Sau khi tính toán tỷ trọng đóng góp của lao động khu vực tư nhân ở Tunisia, một phân tích kinh tế lượng dựa trên dữ liệu hành chính xác định các yếu tố quyết định tỷ lệ này. Kết quả cho thấy tỷ trọng đóng góp của các nhóm dễ bị tổn thương nhất là rất thấp so với những người lao động khác. Phụ nữ có nhiều khả năng đóng góp vào hệ thống lương hưu hơn và mật độ đóng góp giảm theo quy mô của các doanh nghiệp.

2.1.2. Những nghiên cứu của các học giả trong nước

- Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến (1996), với tác phẩm “Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay”. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung của chính sách an sinh xã hội qua việc phân tích: Cơ sở lý luận của bảo đảm xã hội; nhũng quy định của công ước quốc tế về bảo đảm xã hội và kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội; lịch sử hình thành chính sách bảo đảm xã hội ở Việt Nam; vấn đề đổi mới chính sách bảo đảm xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội nói riêng trên các


lĩnh vực như BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội. Mặc dù vẫn chưa phân định rõ ràng giữa bảo đảm xã hội với an sinh xã hội song có thể nói, công trình đó đã đưa ra nhiều luận cứ quan trọng cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội nói riêng và chính sách xã hội nói chung ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.

- Nguyễn Huy Ban (1999), "Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển BHXH, việc thực hiện BHXH ở một số nước trên thế giới và thực trạng chính sách BHXH ở Việt Nam. Đưa ra những định hướng cơ bản để phát triển BHXH ở Việt Nam.

- Ngân hàng Thế giới World Bank (2012), “Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai”. Bản báo cáo thảo luận một số thách thức chủ yếu trong chính sách hưu trí ở Việt Nam và trình bày những lựa chọn chính sách để giải quyết các thách thức này. Bản báo cáo bắt đầu với phần đánh giá tổng quan hệ thống hưu trí hiện tại, mô tả những đặc điểm chính của hệ thống. Tiếp theo báo cáo sẽ đưa ra những thách thức chủ yếu và đề xuất những biện pháp có thể thực hiện để tăng cường và củng cố hệ thống hưu trí trong thời gian tới. Bản báo cáo được đúc kết từ những nghiên cứu và phân tích cơ bản đã được thực hiện cho công việc này và những nghiên cứu khác trong thời gian gần đây về hệ thống hưu trí của Việt Nam. Báo cáo cũng chỉ ra những lựa chọn hoặc quyết định chính sách tiềm năng sẽ cần phải tiếp tục nghiên cứu trong vài năm tới. - Vũ Văn Phúc (2012), "An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong nghiên cứu này, tác giả đã trình bày về: 1) Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thế giới về an sinh xã hội; 2) Những vấn đề về thực tiễn an sinh xã hội ở nước ta.

- Nguyễn Thị Hào (2015), “Đảm bảo tài chính cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam” Luận văn Tiến sĩ tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân. Tác giả đã hệ thống lại các khái niệm đảm bảo tài chính cho BHXH dưới góc độ kinh tế chính trị học và luận giải nội dung đảm bảo tài chính cho BHXH bao gồm các vấn đề: đảm bảo thu, đảm bảo chi, đảm bảo sự cân đối và ổn định quỹ BHXH trong dài hạn, đảm bảo sự

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/02/2023