và dàn xếp nguồn vốn cho đầu tư một cách tối ưu, tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi với chi phí thấp nhất có thể; Xác định giá cho thuê và áp dụng cách tính giá cho thuê mặt bằng nhằm tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp thứ cấp; Xác định mức phí bảo trì, phí xử l nước thải công nghiệp và phí thu gom chất thải rắn hợp l .
- Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong KCN thì cần phải: Lựa chọn nguồn vốn ưu đãi và quản l sử dụng vốn hiệu quả.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017) đã chỉ ra một số những khó khăn tồn tại trong việc phát triển các KCN tại Việt Nam hiện nay. Một trong những khó khăn đó là việc huy động nguồn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho các KCN còn hạn chế. Để các mô hình KCN, khu kinh tế hoạt động có hiệu quả, cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và ngoài hàng rào cần được đầu tư đồng bộ. Do vậy, nhu cầu đầu tư hạ tầng cho phát triển các KCN, khu kinh tế là rất lớn. Hiện nay, đối với các mô hình KCN, khu kinh tế có quy mô nhỏ như KCN thì việc huy động nguồn vốn tư nhân, nước ngoài để đầu tư hạ tầng kỹ thuật bên trong hàng rào cũng đã đạt được các kết quả khả quan. Đối với hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào các KCN, khu kinh tế lại chủ yếu sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Trong điều kiện nợ công có chiều hướng tăng cao, sẽ đạt hạn mức tối đa cho phép trong thời gian tới. Do vậy với khả năng cân đối ngân sách khó khăn, việc huy động vốn để đầu tư hạ tầng đang và sẽ là một thách thức không nhỏ trong phát triển các KCN, KKT.
Trần Thị Mai Hoa (2018) nghiên cứu về đầu tư phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong nghiên cứu của mình tác giả đã chỉ ra các kênh huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển các KCN bao gồm: huy động từ nguồn vốn nhà nước, huy động từ nguồn vốn của các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng các KCN và nguồn vốn của các doanh nghiệp trong KCN. Trong đó nguồn vốn nhà nước được huy động qua các kênh như: ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng cho đầu tư phát triển. Ngoài nguồn vốn huy động từ nhà nước thì nguồn vốn của các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng trong các KCN được xem là lớn nhất và chủ yếu trong trong đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong KCN.
Bùi Hữu Phú (2019) nghiên cứu về giải pháp tài chính phát triển các KCN
tại tỉnh Vĩnh Phúc. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra những hạn chế trong chính sách tài chính nhằm phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc đó là: (i) chưa đa dạng trong việc sử dụng các công cụ tài chính nhằm thu hút vốn vào các KCN, cụ thể là mới chỉ dừng lại ở 2 loại thuế đó là thuế doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu nên chưa hấp dẫn các nhà đầu tư; (ii) chưa mạnh dạn sử dụng công cụ chi ngân sách, hay nói cách khác chưa tận dụng được hiệu quả nguồn vốn ngân sách cho đầu tư vào các KCCN; (iii) các chương trình hỗ trợ tín dụng chưa phát huy được hiệu quả. Nguyên nhân của những hạn chế này được chỉ ra phần nào là do thể chế và chính sách của nhà nước và đặc biệt là chế tài của địa phương. Trong đó tác giả cũng nhấn mạnh rằng việc chưa thực hiện đa dạng nguồn vốn đầu tư vào các KCCN là một trong những nguyên nhân gây thiếu nguồn tài trợ cho xây dựng và phát triển các KCCN, nhất là trong điều kiện ngân sách địa phương eo hẹp thì việc đa dạng các nguồn vốn và kênh huy động vốn là rất cần thiết. Bên cạnh đó Vĩnh Phúc cũng chưa có một chính sách nào được ban hành để thực hiện đa dạng các nguồn vốn đầu tư thúc đẩy quá trình phát triển các KCN. Trong khi mô hình đầu tư tư nhân và mô hình hợp tác công tư trong huy động vốn xây dựng các công trình, hạng mục hỗ trợ KCN đã và đang được thực hiện có hiệu quả ở nhiều quốc gia và một số địa phương trong nước.
Trong nghiên cứu mới đây của Đặng Đình Đức (2020) đã chỉ ra sự tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 đến các hoạt động kinh tế xã hội làm kinh tế toàn cầu bị suy thoái nhưng tác giả lại khẳng định đây là thời cơ để Việt Nam nói cung và nói riêng với từng địa phương có thể tận dụng xu hướng dịch chuyển dòng vốn… Covid 19 đã ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội ở khắp các nước trên thế giới, đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào trạng thái bất ổn, suy thoái, làm thay đổi trật tự và các mối quan hệ đầu tư, thương mại, các chuỗi cung ứng,….Tuy nhiên, tác giả lại nhận định rằng, đây chính là thời điểm thuận lợi để Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng tận dụng xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư để giảm sự phụ thuộc (tối đa) vào một thị trường hay một đối tác nhất định, thực hiện tái cấu trúc và thiết lâp lại chuỗi cung ứng toàn cầu ở trạng thái mới,…nhằm
Có thể bạn quan tâm!
- Huy động vốn đầu tư cho khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 2
- Các Lý Thuyết Về Đầu Tư Và Thu Hút Vốn Đầu Tư
- Các Nghiên Cứu Về Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Các Khu, Cụm Công Nghiệp
- Vai Trò Của Khu, Cụm Công Nghiệp Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế Xã Hội
- Nội Dung Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Khu, Cụm Công Nghiệp
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Khu, Cụm Công Nghiệp
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
tăng cường thu hút, huy động nguồn vốn, nguồn lực tài chính từ nước ngoài, đặc biệt là từ các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hàn Quốc, Mỹ và các nước EU. Tác giả cũng đế xuất một số giải phát nhằm phát triển các KCN, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao khả năng cạnh tranh và thu hút nguồn vốn đầu tư của các KCN.
1.4. Khoảng trống và khung nghiên cứu của luận án
1.4.1. Khoảng trống nghiên cứu của luận án
Qua nội dung của các nghiên cứu trên cho thấy, phần lớn các công trình nghiên cứu trước đều xoay quanh tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến KCCN và, thu hút vốn đầu tư và phát triển KCCN. Một số đề tài chọn đối tượng nghiên cứu là thu hút đầu tư vào các KCCN và một số công trình đề cập đến việc phát triển bền vững các KCCN như: xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển bền vững của KCCN, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các KCCN, các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào các KCCN.
Vấn đề huy động vốn đầu tư cho các KKCN cũng được đề cập ở các khía cạnh khác nhau. Các công cụ huy động vốn và các hình thức huy động chưa được xem xét và đánh giá một cách đầy đủ như những giải pháp giữ vai trò động lực, thúc đẩy thu hút đầu tư, tạo cơ sở cho quá trình phát triển bền vững của các KCCN.
- Về cơ sở luận: Làm rõ nội hàm về huy động vốn đầu tư cho KCCN trên cơ sở kế thừa và tiếp thu thành quả của những nghiên cứu trước, luận án tập trung giải quyết các vấn đề chưa được làm rõ để có một cái nhìn tổng quát, toàn diện và theo quan điểm mới về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào các KCCN.
- Về mặt phương pháp: luận án sử dụng cả phương pháp phân tích định tính kết hợp với phân tích định lượng để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu. Phương pháp định tính được dùng để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn đầu tư cho KCCN, còn phương pháp định lượng được dùng để lượng hoá các nhân tố ảnh hưởng, từ đó xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này để làm cơ sở đề xuất các phương thức huy vốn đầu tư cho KCCN.
- Về mặt thực tiễn: việc đầu tư cho các KCCN trước nay mới chỉ dừng lại ở
việc tiếp cận các góc độ như đầu tư phát triển, hay thu hút đầu tư vào các KCCN. Trong luận án, tác giả tiếp cận từ cả góc độ huy động vốn đầu tư KCCN bao gồm cả vốn cho đầu tư hạ tầng với nhiều hình thức và kênh huy khác nhau như: vốn huy động từ khu vực nhà nước (vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn trái phiếu chính phủ, vốn ODA,…) và vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCCN qua kênh huy động từ khu vực trong và ngoài nhà nước (vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài FDI, các doanh nghiệp kinh danh hạ tầng,…). Bên cạnh đó Phú Thọ là một địa phương còn nhiều khó khăn, ngành công nghiệp còn non trẻ, quá trình xây dựng và phát triển các KCCN cũng đang gặp phải những khó khăn, cản trở nhất định, trong đó nổi cộm lên là vấn đề nguồn vốn. Do đó, việc triển khai nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến huy động vốn đầu tư cho các KCCN là rất cấp thiết.
1.4.2. Khung nghiên cứu của luận án
Từ mục tiêu nghiên cứu tác giả đưa ra khung nghiên cứu và quy trình nghiên cứu như sau:
Bước 1: Nghiên cứu tổng quan về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến các KCCN và huy động vốn đầu tư cho KCCN qua các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài, luận án tiến sĩ, luận văn cao học, các bài báo, sách chuyên khảo, tham khảo,…nhằm xác định khoảng trống nghiên cứu.
Bước 2: Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu và mục tiêu của đề tài, làm rõ khung l thuyết về huy động vốn đầu tư cho KCCN. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào KCCN và nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong việc huy động vốn đầu tư cho KCCN, từ đó rút ra bài học cho tỉnh Phú Thọ.
Bước 3: Phân tích thực trạng huy động vốn đầu tư cho các KCCN qua việc đánh giá, phân tích dữ liệu thứ cấp thu được từ các cơ quan liên quan như: Ban quản l các KCCN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ, niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ,….từ đó đánh giá chung về tình hình huy động vốn đầu tư cho các KCCN tỉnh Phú Thọ, rút ra kết quả đạt được cũng như hạn chế còn tổn tại.
Bước 4: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào KCCN
qua dữ liệu sơ cấp thu được từ khảo sát điều tra các doanh nghiệp đang hoạt động trong KCCN, sử dụng phần mềm SPSS để xử l kết quả điều tra và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng.
Bước 5: Trên cơ sở định hướng cho việc huy động vốn đầu tư cho KCCN tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn đầu tư cho các KCCN tỉnh Phú Thọ.
Hình 1.1. dưới đây là khung nghiên cứu của luận án:
Hình 1.1. Khung nghiên cứu của luận án
Tóm tắt chương 1
Chương 1 trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của luận án. Nội dung của chương được chia ra thành 4 phần chính.
Phần thứ nhất là tìm hiểu về các l thuyết đầu tư và thu hút vốn đầu tư. Các l thuyết này được luận án tổng hợp từ góc độ vĩ mô đến vi mô nhằm giải thích và dự đoán cho các hiện tượng đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao động, công nghệ) giữa các nước và các yếu tố tác động đến việc đầu tư quốc tế như: địa điểm, thể chế, lợi thế giao thông, thông tin liên lạc, sự hài lòng của nhà đầu tư,…
Phần thứ hai là tìm hiểu về các nghiên cứu huy động vốn đầu tư cho phát triển nói chung. Các nghiên cứu này chỉ ra rằng khu vực công có vai trò xúc tác trong việc thu hút vốn của khu vực tư nhân, đặc biệt trong việc mở rộng hay đầu tư xây dựng hạ tầng. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng đề cập đến các kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển như huy động từ khu vực tư nhân, huy động qua hình thức đối tác công tư, huy động nguồn vốn ODA,…
Phần thứ ba là tìm hiểu về các nghiên cứu huy động vốn đầu tư cho KCCN. Các nghiên cứu này được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như: đề xuất các kênh huy động vốn đầu tư, các giải pháp tài chính, việc thu hút vốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh và đầu tư cơ sở hạ tầng trong các KCCN,…
Phần thứ tư là xác định khoảng trống nghiên cứu, từ đó đề xuất khung nghiên cứu của luận án.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP Ở ĐỊA PHƯƠNG
2.1. Khái quát về khu, cụm công nghiệp
2.1.1. Khái niệm khu, cụm công nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm về KCN được các cá nhân, các đơn vị, các cơ quan, tổ chức đưa ra theo các cách khác nhau. Sự khác nhau trong quan điểm về KCN không chỉ diễn ra ở các quốc gia, mà ngay cả trong một quốc gia, với mỗi thời kỳ, mỗi hoàn cảnh khác nhau, quan điểm về KCN cũng không đồng nhất.
UNIDO (1997) đưa ra khái niệm về KCN như sau: “KCN là một vùng đất được quy hoạch, được phát triển và chia ra thành các mảnh đất theo một quy hoạch tổng thể, có hoặc không có các nhà xưởng được xây dựng trước, có hoặc không có công trình hỗ trợ dùng chung, là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp”.
Douglas Zhihua Zeng (2017) cho rằng: “Khu công nghiệp là các địa điểm sản xuất rộng lớn. Một số khu đa chức năng tương tự như khu thương mại tự do, khu chế xuất, đặc khu kinh tế đã tách ra nhưng thường hoạt động ở quy mô nhỏ hơn. Các KCN thường cung cấp một loạt các ưu đãi và lợi ích”.
UNIDO (2019) lại đưa ra định nghĩa về KCN là: “Khu công nghiệp là một vùng đất được phát triển và chia nhỏ thành các lô đất theo một kế hoạch toàn diện với sự cung cấp đầy đủ về đường xá, giao thông và các tiện ích công cộng, đôi khi còn là cả các tiện ích chung dành cho một nhóm các nhà sản xuất”.
Ở Việt Nam theo Nghị định 82/2018/NĐ-CP của Chính Phủ (2018) quy định: “Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này”.
Theo Luật Đầu tư số: 61/2020/QH14 của Quốc Hội (2020) cũng đã định nghĩa về KCN: “Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp”.
Từ các khái niệm, quy định ở trên luận án thống nhất khái niệm về KCN: KCN là một khu đất được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ.
2.1.1.2. Khái niệm cụm công nghiệp
Khái niệm Cụm công nghiệp có nguồn gốc từ thuật ngữ “Geographical clusters” hay “Industrial districts” xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX bởi Alfred Marshall, xuất phát từ việc nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở miền Bắc nước Anh.
Theo Alfred Marshall (1919) các CCN có ba lợi thế cơ bản từ sự tập trung:
(i) Sự lan toả của thông tin; (ii) Sự chuyên môn hoá phân công lao động giữa các cơ sở với nhau và (iii) sự phát triển của thị trường lao động đa dạng có tay nghề cao.
Theo Michael E. Porter (1998)“CCN là sự tập trung về mặt địa lý của các công ty và tổ chức có liên quan trong một lĩnh vực cụ thể nào đó và bao gồm các ngành gắn kết với nhau”. CCN tập trung các nhà cung cấp đầu vào, các khách hàng tiêu thụ sản phẩm, cũng như các nhà sản xuất các sản phẩm khác có liên quan. Các CCN cũng có thể bao gồm các tổ chức như trường đại học, viện nghiên cứu, trường đào tạo nghề và các hiệp hội thương mại.
Theo UNIDO (1995) thì: “CCN là một khu vực tập trung các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng ngành, theo một khu vực địa lý, cùng sản xuất và bán các loại hàng hóa phụ trợ có liên quan đến nhau và do đó cũng gặp các khó khăn và thuận lợi tương tự nhau”.
Theo Rosenfeld (1997):“CCN là sự tập trung những doanh nghiệp tương tự, có liên quan hoặc bổ sung trong một phạm vi địa lý, với các hoạt động giao dịch kinh doanh, thông tin liên lạc và đối thoại; chia sẻ cơ sở hạ tầng chuyên ngành, thị trường lao động, dịch vụ, những vấn đề đang phải đối mặt với các cơ hội và thách thức”. Rosenfeld nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tương tác xã hội và liên kết giữa các công ty trong việc xác định bản chất của CCN. Bên cạnh đó, Rosenfeld đề