Các Lý Thuyết Về Đầu Tư Và Thu Hút Vốn Đầu Tư


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


Có thể khẳng định rằng, sự ra đời và phát triển của các KCCN tại nhiều quốc gia, đặc biệt là tại các nước đang phát triển đã giúp thu hút được một nguồn vốn lớn cũng như công nghệ tiên tiến từ các doanh nghiệp nước ngoài và các thành phần kinh tế trong nước, từ đó đóng góp không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên để thành lập và phát triển các KCCN thì yếu tố mang tính quyết định chính là vốn đầu tư. Có thể nói vốn đầu tư chính là yếu tố sản xuất quan trọng đối với phát triển tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển các KCCN nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước eo hẹp. Chính vì vậy, việc huy động vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu vốn cho KCCN là một vấn đề đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm chú .

Cho đến nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề vốn đầu tư cho KCCN theo nhiều góc độ khác nhau. Để làm rõ cho đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận án tổng hợp các công trình nghiên cứu theo các nhóm như sau:

(1) Các l thuyết về đầu tư, thu hút vốn đầu tư

(2) Các nghiên cứu về huy động vốn đầu tư cho phát triển

(3) Các nghiên cứu về huy động vốn đầu tư cho KCCN

1.1. Các lý thuyết về đầu tư và thu hút vốn đầu tư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Cho đến nay các nhà kinh tế học trên thế giới đã nghiên cứu, đúc kết được nhiều lý thuyết giải thích về các yếu tố thu hút đầu tư, cũng như việc dịch chuyển đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế, đầu tư luôn được nhìn nhận như là một quá trình phát triển phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố có thể thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. Chưa có l thuyết nào giải quyết được tất cả các khía cạnh của quá trình đầu tư, mỗi lý thuyết đều có những điểm mạnh và những hạn chế riêng.

1.1.1. Lý thuyết vĩ mô

Huy động vốn đầu tư cho khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 3

Các lý thuyết kinh tế vĩ mô về đầu tư quốc tế giải thích và dự đoán hiện


tượng đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao động, công nghệ) giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết này dựa trên mô hình cổ điển 2x2 (hai nước, hai hàng hóa, hai yếu tố sản xuất) để so sánh hiệu quả vốn đầu tư hoặc tỷ suất lợi nhuận giữa các nước.

Lý thuyết thương mại quốc tế

Trên cơ sở mô hình l thuyết thương mại quốc tế của Heckscher (1919) và Ohlin (1933), Richard .S (1986) đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các nhân tố sản xuất (vốn, công nghệ, …) giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế. Theo ông, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ở phạm vi toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện việc di chuyển của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp (thừa vốn), trong khi nước nhận đầu tư lại có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn (thiếu vốn). Vì vậy, chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước đã làm xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư giữa các nước.

Vận dụng khái niệm cạnh tranh độc quyền trong thương mại quốc tế Krugman đã đưa ra một l thuyết hoàn toàn mới về thương mại quốc tế. Theo Krugman (1979) lợi thế về quy mô sản xuất sẽ làm giảm chi phí sản xuất. L thuyết này xây dựng trên các lập luận: (i) Quá trình chuyên môn hóa sản xuất và lợi thế kinh tế theo quy mô sẽ mang lại các khoản lợi ích cho các bên tham gia; (ii) Các doanh nghiệp đầu tiên gia nhập vào một thị trường nào đó có thể tạo ra những rào cản nhất định đối với các doanh nghiệp gia nhập sau đó; (iii) Chính phủ của các nước có thể có vai trò hỗ trợ có hiệu quả cho các công ty của nước mình khi tham gia vào thị trường thế giới. Mô hình của Paul Krugman giải thích tại sao thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra giữa những nước có lợi thế tương đối về công nghệ và nhân tố sản xuất tương tự nhau.

Lý thuyết về năng suất cận biên của vốn

Cùng với quan điểm của Richard, MacDougall (1960) cho rằng, chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân dẫn đến lưu chuyển


vốn quốc tế. Quan điểm này sau đó được Kemp (1964) phát triển thành mô hình Mac Dougall - Kemp để giải thích hiện tượng OFDI.

Theo mô hình này, những nước phát triển (đang thừa vốn đầu tư) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những nước đang phát triển (đang thiếu vốn). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa hai nhóm nước này. Ngoài ra, những giả định khác đó là: Thị trường tại hai quốc gia là cạnh tranh hoàn hảo; Vốn được tự do di chuyển; Thông tin thị trường hoàn hảo; Các quốc gia đều cùng sản xuất một loại hàng hóa.

Mô hình này đã nêu được điều kiện cần cho đầu tư quốc tế là chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước nhưng chưa nêu được điều kiện đủ. Ngoài ra, mô hình còn chưa giải thích được một số hiện tượng lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế, không phân tách được FDI và FPI.

Lý thuyết về cạnh tranh quốc gia

Michael (1990) đã xây dựng nên lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia để lý giải cho việc tại sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói cách khác là có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Theo Michael Porter lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện qua sự liên kết của 4 nhóm yếu tố: (i) điều kiện các yếu tố sản xuất; (ii) điều kiện về nhu cầu thị trường;

(iii) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; (iv) chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành. Ngoài ra còn có hai nhân tố có thể ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh quốc gia đó chính là các chính sách của Chính Phủ và cơ hội. Trong đó các yếu tố sản xuất tạo nên lợi thế cạnh tranh quốc gia bao gồm: (i) tài nguyên nhân lực; (ii) tài nguyên vật chất; (iii) tài nguyên kiến thức; (iv) nguồn vốn; và (v) cơ sở hạ tầng.

1.1.2. Lý thuyết vi mô

Bên cạnh các l thuyết vĩ mô về đầu tư và đầu tư quốc tế thì các l thuyết vi mô về đầu tư thường xoay quanh việc trả lời câu hỏi là tại sao các công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Các l thuyết này giải thích về nguyên nhân hình thành các công ty xuyên quốc gia và tác động của chúng đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các


nước đang phát triển. Một số l thuyết vi mô về đầu tư điển hình có thể kể đến như:

Lý thuyết tổ chức công nghiệp

Trong số các lý thuyết tìm cách lý giải về đầu tư quốc tế, lý thuyết dựa trên những lý giải về tổ chức doanh nghiệp hiện có ảnh hưởng lớn nhất. Lý thuyết tổ chức công nghiêp do Stephen Hymer nêu ra bắt nguồn từ luận án tiến sĩ nổi tiếng của Hymer hoàn thành năm 1960, công bố năm 1978. Theo Hymer (1976) sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) quá trình liên kết theo chiều dọc ở các giai đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản xuất; (2) viêc sản xuất áp dụng khai thác kỹ thuật mới; (3) những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên lạc mang đến cơ hội mở rộng hoạt động ra đầu tư nước ngoài. Hymer cũng chỉ ra rằng nếu các MNCs nước ngoài hoàn toàn giống với các doanh nghiệp trong nước thì họ sẽ chẳng tìm thấy lợi ích gì khi xâm nhập vào thị trường nước đó, vì rõ ràng họ phải trả những chi phí phụ trội khi kinh doanh ở nước khác, ví dụ như phí liên lạc và vận chuyển, chi phí cao hơn cho nhân viên làm việc ở nước ngoài, rào cản về ngôn ngữ, hải quan và phải hoạt động ngoài mạng lưới kinh doanh nội địa (đây là những bất lợi của các công ty khi đầu tư ra nước ngoài). Vậy nên Hymer cho rằng để các MNCs tiến hành sản xuất ở nước ngoài họ cần có trong tay một số lợi thế sở hữu riêng của doanh nghiệp, như nhãn hiệu nổi tiếng, công nghệ cao hơn và được bảo hộ, kỹ năng quản lý hoặc chi phí thấp hơn nhờ mở rộng quy mô, những lợi thế này đủ để bù đắp lại những bất lợi mà họ phải đương đầu trong cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước sở tại. Tuy nhiên lý thuyết tổ chức công nghiệp cũng chưa phải là giả thuyết hoàn chỉnh về FDI, nó không trả lời được câu hỏi vì sao công ty lại sử dụng hình thức FDI chứ không phải là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hay cấp giấy phép hoặc bán những kỹ năng đặc biệt đó cho các công ty sở tại.

Lý thuyết chiết trung

Lý thuyết chiết trung được xây dựng bằng cách tổng hợp ba dòng lý thuyết về FDI là lý thuyết tổ chức công nghiệp, lý thuyết nội vi hoá và lý thuyết địa điểm


công nghiệp. Theo Dunning một doanh nghiệp chỉ thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài khi hội tụ đủ ba điều kiện theo mô hình OLI: (1) (O: Ownership advantages) sở hữu/quy mô: doanh nghiệp phải sở hữu một số lợi thế so với doanh nghiệp khác như quy mô, công nghệ, mạng lưới tiếp thị, khả năng tiếp cận nguồn vốn có lãi suất thấp hay các tài sản vô hình đặc thù của doanh nghiệp; (2) (L: Location advantages) địa điểm: Sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư có chi phí thấp hơn là sản xuất tại nước mẹ rồi xuất khẩu, (3) (I: Internalisation Advantages) nội vi hoá: việc sử dụng những lợi thế đó trong nội bộ doanh nghiệp có lợi hơn là bán hay cho các doanh nghiệp khác thuê. Đây là mô hình được Dunning xây dựng khá công phu, bao quát các yếu tố chính của nhiều công trình khác nhau lý giải về FDI như Dunning (1973); Dunning (1977); Dunning (1981a); Dunning (1981b); Dunning (1983); Dunning (1988); Dunning (1998); Dunning & Dilyard (1999) trong đó nhấn mạnh 3 điều kiện cần thiết nhất để một doanh nghiệp có động cơ tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên lý thuyết này cũng còn phụ thuộc vào quá nhiều giả định, và trên thực tế một công ty khi quyết định đầu tư ở thị trường nước ngoài sẽ không xét hết ba điều kiện này, đồng thời lý thuyết này cũng chưa chỉ rõ được sự tác động qua lại cũng như thứ tự ưu tiên giữa các yếu tố trên trong đầu tư quốc tế.

Lý thuyết lợi thế địa điểm

Lý thuyết về lợi thế địa điểm do Dunning (1973) đề xuất dựa trên lý thuyết về quan hệ cung - cầu các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh. Về sau có nhiều quan điểm khác nhau về lợi thế địa điểm đầu tư, nhưng nhìn chung các tác giả đều tìm kiếm các nguyên nhân làm xuất hiện FDI từ các yếu tố liên quan đến địa điểm đầu tư như: thị trường địa phương, chi phí và chất lượng của các yếu tố sản xuất địa phương, thể chế của nước chủ nhà tác động đến các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư,….Theo họ, quyết định lựa chọn địa điểm của nhà đầu tư dựa trên cơ sở lợi thế địa điểm đó có thể giúp doanh nghiệp tối đa hóa doanh thu, tối thiểu hóa chi phí, tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh hay không. Cụ thể, với giả định rằng, công ty muốn khai thác lợi thế sở hữu của mình một cách tối đa, họ sẽ chọn địa điểm để thành lập công ty và


xây dựng nhà máy có chi phí thấp và hiệu quả nhất. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh như: chi phí thông tin, chi phí giao dịch, chi phí nguyên liệu, chi phí vận chuyển, chi phí tiền lương. Do đó địa điểm sản xuất quốc tế được quyết định dựa trên so sánh về yếu tố chi phí.

Bên cạnh đó, theo Dunning (1988) với giả định chi phí sản xuất độc lập với địa điểm thì yếu tố thị trường, các rào cản và đối thủ cạnh tranh cũng sẽ ảnh hưởng tới việc tối đa hóa doanh thu nên vị trí sản xuất quốc tế sẽ được quyết định dựa vào doanh thu. Ngoài yếu tố chi phí và doanh thu, yếu tố rủi ro trong kinh doanh (sự bất ổn của doanh thu và chi phí) do sự bất ổn về thể chế kinh tế, chính trị và xã hội của nước nhận đầu tư cũng được xem xét để quyết định vị trí sản xuất quốc tế. Những địa điểm có khung thể chế gần với nước chủ đầu tư, môi trường đầu tư minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh quốc tế và chính trị ổn định sẽ là vị trí sản xuất quốc tế được yêu thích lựa chọn. Như vậy, lý thuyết lợi thế địa điểm giải thích lý do lựa chọn địa điểm đầu tư dựa vào yếu tố doanh thu, chi phí, lợi nhuận và rủi ro trong kinh doanh. Lý thuyết này chỉ ra nhiều yếu tố góp phần tạo nên lợi thế địa điểm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài như: vị trí địa l , cơ sở hạ tầng, quy mô và tiềm năng thị trường, chi phí lao động, nguyên liệu, sự sẵn có tài nguyên, chính sách hỗ trợ.

Lý thuyết về sự hài lòng của nhà đầu tư

Kurtz & Clow (1998) cho rằng, sự hài lòng là trạng thái cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ so với kỳ vọng. Bên cạnh đó Kotler (2003) cho rằng, hài lòng là sự cảm nhận vui thích hoặc thất vọng của một người về chất lượng một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào đó. Như vậy có thể hiểu rằng, khách hàng hay các nhà đầu tư sẽ thỏa mãn với một địa phương khi họ hoạt động có hiệu quả tại địa phương đó. Khi nhà đầu tư đạt được mục tiêu, họ sẽ có xu hướng tiếp tục quá trình đầu tư của họ tại địa phương, đồng thời sẽ tạo hiệu ứng tích cực cho các doanh nghiệp khác đến đầu tư nhiều hơn.


1.2. Các nghiên cứu về huy động vốn đầu tư cho phát triển

1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài

Huy động vốn từ các nguồn khác nhau để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế hay từng địa phương là một chủ đề luôn nhận được nhiều sự quan tâm từ các nghiên cứu quốc tế. Cho đến nay có rất nhiều cách tiếp cận huy động vốn đầu tư cho phát triển nói chung. Một số nghiên cứu có thể kể đến như:

Nghiên cứu của ADB (2008) đã tập trung vào kênh huy động vốn qua mối quan hệ đối tác Nhà nước - Tư nhân. Nghiên cứu này cung cấp tổng quan về vai trò, cấu trúc, việc thực hiện mối quan hệ đối tác Nhà nước - Tư nhân trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.

Ang, James (2010) nghiên cứu về kinh nghiệm huy động vốn đầu tư qua kênh tiết kiệm ở Malaysia và mối liên hệ của nó với sự phát triển và tự do hóa tài chính, từ đó rút ra bài học về huy động vốn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sự phát triển sâu rộng của hệ thống tài chính, sự gia tăng về mạng lưới và mật độ các ngân hàng sẽ làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm tư nhân. Bên cạnh đó việc phát triển thị trường bảo hiểm và tự do hóa hệ thống tài chính cũng hỗ trợ cho việc huy động vốn đầu tư từ tiết kiệm tư nhân ở Malaysia.

The World Bank (2013) đã nghiên cứu về các nguồn vốn đầu tư và xu hướng huy động vốn tài trợ cho phát triển các quốc gia giai đoạn từ 2013 trở đi. Nghiên cứu chỉ ra rằng để cải thiện việc huy động vốn đầu tư trong nước thì cần nâng cao năng lực thuế hay tăng cường quản l thuế, khai thác các nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên, cải cách trợ cấp và kiểm soát các dòng tài chính bất hợp pháp. Bên cạnh đó World Bank cũng đề cao vai trò của tài chính tư nhân cho phát triển bao gồm: FDI, vay ngân hàng, vốn hóa thị trường và dòng tiền từ kiều hối,…Khu vực công thì có vai trò xúc tác trong việc thu hút vốn của khu vực tư nhân, chẳng hạn như để mở rộng hay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài nguồn vốn trong nước và tài chính tư nhân thì đối với nhiều nước đang phát triển, ODA và những hỗ trợ cải cách của nó vẫn tiếp tục được coi là một nguồn vốn ổn định tài trợ cho phát triển.

Nghiên cứu của A. Chowdhury (2018) chỉ ra tầm quan trọng của thuế và sử


dụng nguồn lực công để huy động vốn dưới hình thức hợp tác công tư và tài chính hỗn hợp. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh việc huy động vốn trong nước và quốc tế đòi hỏi phải tiếp cận một cách thận trọng đối với 2 hình thức này, đặc biệt là ở các nước thu nhập thấp và kém phát triển. Mặt khác nghiên cứu cũng phản ánh một số trở ngại trong việc huy động vốn đầu tư từ khu vực công và khu vực tư, những thách thức liên quan đến việc sắp xếp nguồn vốn tư nhân cho phát triển.

Lĩnh vực huy động vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng cũng nhận được rất nhiều quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội nói chung và đầu tư vào các KCCN nói riêng thì cơ sở hạ tầng đều là những nội dung đầu tư rất quan trọng. Một số nghiên cứu về huy động vốn cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng có thể kể đến như:

Tony Addison & P.B. An and (2012) cho rằng nguồn vốn ODA đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đầy tài trợ cho cơ sở hạ tầng từ các nguồn vốn khác. Nghiên cứu chỉ ra rằng, với tình hình cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng giao thông còn nhiều yếu kém và hạn chế tại đa số các nước Châu Phi thì cần một nguồn vốn viện trợ ODA vô cùng lớn mà không một quốc gia nào có thể viện trợ đơn lẻ được. Thông thường ODA được xem như một nguồn lực tài chính qu giá để bù đắp cho sự thiếu hụt này, tuy nhiên khoảng cách giữa nhu cầu và thực tế đầu tư là quá lớn, nếu chỉ viện trợ bằng một nguồn duy nhất là ODA thì cơ sở hạ tầng ở Châu Phi có thể sẽ không bao giờ nhận được mức viện trợ cần thiết. Do đó cần xem xét vai trò việc trợ từ các nguồn vốn khác nữa. Mục đích của viện trợ không nên chỉ là cố gắng để lấp đầy những khoảng trống trong ngân sách của Chính Phủ các nước nhận viện trợ, mà còn có một vai trò to lớn hơn đó là thông qua ODA để giúp tăng nguồn tài trợ cho cơ sở hạ tầng từ các nguồn vốn khác. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi và cải tổ trong cách thức mà các nhà hoạch định chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng đang thực hiện.

Cũng nghiên cứu về nguồn vốn cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhưng Manpreet Kaur et al. (2013) lại đánh giá cao vai trò của nguồn vốn FDI. Tác giả cho rằng cơ sở hạ tầng đầy đủ là cần thiết, không chỉ cho đầu tư trong nước mà còn tạo điều kiện

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/02/2023